Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Audio book CÁI ÔM DIỆU KỲ – Nick Vujicic

Link nghe audio +book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-CAI-OM-DIEU-KY-%E2%80%93-Nick-Vujicic--Nghe-mien-phi-649.html

Tác giả: Nick Vujicic
Nhà xuất bản: Tổng hợp TPHCM

Giới thiệu cuốn sách:

“Give me a Hug – Cái ôm diệu kỳ" Phản ứng đầu tiên của một em bé khi gặp một người không tay không chân sẽ như thế nào? Chắc chắn là hốt hoảng và sợ hãi. Nhưng với Nick Vujicic (tác giả của ba cuốn sách gây sốt trong thời gian qua: Cuộc Sống Không Giới Hạn, Đừng Bao Giờ Từ Bỏ Khát Vọng và Sống Cho Điều Ý Nghĩa Hơn), giây phút sợ hãi ấy sẽ thoáng qua rất nhanh, để nhường chỗ cho những cái ôm ấm áp. Đó hẳn nhiên là một điều kỳ diệu mà không phải ai cũng có được.
Ai lớn lên cùng từng có một tuổi thơ hồn nhiên, vô tư. Nick cũng vậy. Nhưng vì là một người đặc biệt – không tay không chân nên thuở nhỏ, Nick phải đối diện với những lời chọc ghẹo của bạn bè: “quái vật”, “người ngoài hành tình”, “thằng quái dị ngồi xe lăn”.
Đương nhiên, không ai muốn mình bị chọc ghẹo như vậy. Và hồi đó, dù đã giả vờ “như không quan tâm, lại còn cười với chúng nữa” nhưng thực sự thì Nick đã rất buồn. Nhưng rồi Nick đã nhanh chóng vượt qua nỗi buồn vì anh hiểu rằng: “Người thực sự mạnh mẽ sẽ vượt qua được khó khăn, bất chấp người đó có những khiếm khuyết gì. Và họ chắc chắn cũng sẽ rộng lượng tha thứ cho những ai từng bắt nạt họ”.
Cái ôm diệu kỳ là một cuốn truyện tranh gồm 8 câu chuyện nhỏ nhắn và gần gũi, ở đó Nick đóng vai trò là một kể chuyện, đồng thời cũng là một người bạn với các em nhỏ. Mỗi câu chuyện được Nick đặt theo một cái tên riêng như Cái ôm đặc biệt, Chúc mừng sinh nhật, Không bao giờ bỏ cuộc, Hãy vui lên nào… Chính nhờ những câu chuyện này, Nick đã chỉ ra cho các em biết rằng “Không phải cứ nhắm mắt ngủ một giấc ngủ là mọi chuyện thành hiện thực đâu” mà “Nhờ niềm tin, hy vọng và nỗ lực, chú đã đạt được điều mình mong mỏi”.
Ngoài việc giúp các em nhận ra khó khăn của mình và vượt qua nó, Nick còn giúp các em yêu thương, chia sẻ với những người xung quanh. Theo Nick: “Người tốt xung quanh ta lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ ta hết đó, các cháu nhớ đừng chịu đựng những điều khó khăn một mình nhé”.
Một khi ta biết yêu thương người người khác, thì rồi một ngày ta cũng sẽ được mọi người yêu thương lại, chỉ cần chúng ta chịu mở lòng với mọi người xung quanh. Đó là một bài học giản dị, giàu ý nghĩa mà Nick gửi tới các em nhỏ. Nick không ngồi trên cao và đưa ra những lời khuyên cho các em mà Nick đã thực sự hòa mình vào các em, đến với các em như một người bạn, không khoảng cách về tuổi tác, về công việc hay bất cứ một giới hạn nào đó. Nick trò chuyện với các em một cách thân tình, gần gũi. Chính điều đó khiến Nick xứng đáng được nhận những cái ôm ấm áp từ những thiên thần nhỏ bé.
Những ngày cuối tháng Năm, tấm gương về ý chí và nghị lực – Nick Vujicic đã thực sự bước ra từ trang sách để đến với độc giả Việt Nam. Không ít người, trong đó có các em nhỏ khao khát tận mắt được nhìn Nick bằng xương bằng thịt, được ôm Nick trong vòng tay của mình. Dù không có tay nhưng những vòng ôm giữa Nick và mọi người vẫn đầy ấm áp, tạo nên những ngân rung trong sâu thẳm trái tim của mỗi người.
Với Cái Ôm Diệu Kỳ, một cuốn sách dành cho trẻ em, lứa tuổi bắt đầu nhận thức và tiếp thu các vấn đề trong cuộc sống, thông qua câu chuyện của Nick, chúng tôi hy vọng đây sẽ là nguồn cảm hứng bất tận giúp các em biết yêu thương những người xung quanh, biết đứng dậy sau những vấp ngã và vượt qua những giới hạn của bản thân để trở thành người có ích và sống cho những điều ý nghĩa hơn, giống như tên của một cuốn sách được xuất bản trước đây của Nick.
Người chuyển ngữ Nguyễn Lê Hoài Nguyên cho biết: “Độc giả Việt Nam đã quen thuộc với câu chuyện và hình ảnh của Nick Vujicic nhưng với cuốn sách lần này, sẽ là một món quà vô cùng ý nghĩa cho các em thiếu nhi. Những người thực hiện cuốn sách đã cố gắng giữ đúng tinh thần lạc quan cùng nghị lực phi thường của chàng trai không tay không chân. Đặc biệt, không khí vui tươi, lời thoại dí dỏm cũng được chúng tôi giữ lại để phù hợp với đối tượng mà cuốn sách hướng tới. Tôi tin cuốn sách sẽ làm lay động các em”.
Cái Ôm Diệu Kỳ (NXB Tổng hợp TP.HCM) do Nick Vujicic chuyển quyền xuất bản tiếng Việt cho Công ty Văn hóa Sáng tạo Trí Việt – First News ấn hành. Sách được minh họa bởi những hình vẽ ngộ nghĩnh, bắt mắt.

Audio book Cô Bé Quàng Khăn Đỏ

Link nghe audio + book miễn phí :http://vnaudiobook.com/audio-books-Co-Be-Quang-Khan-Do-514.html

Giới thiệu cuốn sách:
Con mang biếu bà. Bà đang ốm. Bà đang ốm. Bánh và nước trái cây sẽ giúp bà mau khoẻ. Con nên đi đường chính và không lang thang trong rừng."

Ngày xửa ngày xưa có một cô bé mà mọi người trong gia đình đều yêu quý cô bé. Người yêu quý cô nhất là bà cô. Bà đã làm cho cô một chiếc khăn choàn đỏ rất đẹp dành cho cô bé. Cô bé yêu quý chiếc khăn đó và luôn luôn đội. Do đó, mọi người gọi cô là Cô bé quàng khăn đỏ. Cô thường đi xuyên qua rừng để sang thăm bà.

Một hôm, mẹ gọi cô bé lại và nói: "Đây là bánh và nước trái cây*. Con mang biếu bà. Bà đang ốm. Bà đang ốm. Bánh và nước trái cây sẽ giúp bà mau khoẻ. Con nên đi đường chính và không lang thang trong rừng."

"Mẹ đừng lo. Con sẽ nhớ lời mẹ dặn" - Cô bé hứa.

Cô vẫy tay tạm biệt mẹ và lên đường. Khi cô bé vừa đi vào rừng, cô gặp ngay một con sói. Cô bé quàng khăn đỏ không biết Sói là con vật xấu, nên cô bé không sợ chó Sói.

Sói nói "Chào Cô bé quàng khăn đỏ"

"Chào ông Sói" - cô bé trả lời.

"Cô bé đi đâu mà sớm thế?"

"Tôi tới thăm bà tôi"

"Trong giỏ của cô có gì vậy?" - Sói hỏi.

"Trong giỏ của tôi có bánh và nước trái cây. Bà tôi bị ốm nên mẹ nhờ tôi mang những thứ đó sang biếu bà để bà mau lành bệnh."

"Bà của cô sống ở đâu?" - Sói hỏi tiếp.

"Nhà bà tôi nằm ở dưới 3 cây sồi già trong rừng"

Sói nghĩ bụng "Ta sẽ bắt cả hai bà cháu."

Rồi Sói đi cùng cô bé. Trên đường đi, Sói nói: "Cô bé có nhìn thấy những bông hoa rất đẹp ở đằng kia không? Và cô có nghe thấy tiếng chim hót líu lo không? Cô có thể dừng lại, đi hái hoa và nghe chim hót thay vì đi thẳng tới nhà bà."

Ảnh

Sau đó, con Sói tạm biệt Cô bé quàng khưn đỏ và nhanh chóng đi thẳng tới túp lều của bà.

Cô bé quàng khăn đỏ nghĩ tới gợi ý của chó sói và dừng lại nhìn xung quanh. Cánh rừng quả thật là một nơi có nhiều điều hấp dẫn. Những tia nắng nhảy nhót trên cành. Hoa mọc ở khắp nơi, chim hót líu lo. Cô bé nghĩ: "Mình sẽ hái một bó hoa tặng bà. Bà sẽ ngạc nhiên và rất vui."

Cô bé bước khỏi đường chính, và càng ngày cô càng đi xa để hái những bông hoa đẹp nhất tặng bà.

Trong lúc đó, chó sói đã tới ngôi nhà của bà. Nó gõ cửa:

"Ai đó?" - Bà hỏi.

Chó sói giả giọng cô bé quàng khăn đỏ:

"Cháu là cô bé quàng khăn đỏ đây ạ! Cháu mang bánh và nước trái cây mời bà."

"Cháu mở cửa vào đi. Bà mệt lắm, bà không mở cửa cho cháu được." - Bà nói.

Chó sói biết cách mở cửa và đi vào trong nhà.

Không nói câu nào, chó sói tới thẳng giường Bà và nuốt chửng bà vào bụng.

Sau đó, Sói mặc quần áo của bà và đội chiếc mũ ngủ che kín mắt. Sói lên giường của Bà, kéo gièm và nằm chờ Cô bé quàng khăn đỏ.

Trong lúc đó, cô bé quàng khăn đỏ đang thơ thẩn trong rừng để hái những bông hoa đẹp nhất.

Khi cô bé hái được một bó hoa đẹp, cô bé bắt đầu quay trở lại đường chính để mang bánh và nước trái cây cho bà.

Tới nhà bà, cô bé thật ngạc nhiên vì thấy cửa mở. Cô bé bước vào phòng, cô cảm thấy có người lạ trong nhà bà. Cô gọi to "Bà ơi", nhưng không có tiếng trả lời. Cô tới cạnh giường bà, kéo gièm. Bà cô nằm đắp chăn che gần kín mặt và trông rất lạ.

"Bà ơi, sao tai bà to thế?"

"Tai bà to để bà nghe cháu nói rõ hơn."

"Bà ơi, sao mắt bà to thế?"

"Mắt bà to để bà nhìn cháu rõ hơn".

"Bà ơi, sao tay bà to thế?"

"Tay bà to để bà ôm cháu chặt hơn"

"Nhưng bà ơi, sao mồm bà to thế?"

"Mồm ta to để ăn thịt mi dễ hơn"

Nói dứt lời, sói nhảy ra khỏi giường và nuốt chửng cô bé quàng khăn đỏ.

Sau đó, Sói trèo lên giường nằm ngủ và ngáy rất to làm căn nhà rung chuyển. Một bác thợ săn đi ngang qua ngôi nhà và nhủ thầm "Sao hôm nay Bà lại ngáy to thế nhỉ? Mình phải vào trong nhà xem có chuyện gì xảy ra."

Bác thợ săn bước vào nhà, và khi bác tới cạnh giường, bác nhìn thấy chó sói đang nằm trên đó. "Con sói gian ác. Ta đã tìm kiếm mi trong một thời gian dài, bây giờ lại gặp ngươi ở đây."

Bác thợ săn định đốt con Sói, nhưng bác chợt nghĩ rằng có thể con sói đã nuốt chửng Bà, và bác cần cứu Bà. Do đó, bác không đốt Sói nữa mà cầm kéo mở bụng chó sói.

Khi dùng hai nhát kéo, bác thợ săn nhìn thấy cô bé quàng khăn đỏ. Thêm hai nhát kéo nữa, bác thợ săn lôi cô bé quàng khăn đỏ ra khỏi bụng chó sói. Cô bé quàng khăn đỏ khóc: "Cháu sợ qúa! Trong bụng chó sói tối lắm."

Bác thợ săn tiếp tục mở bụng chó sói và đưa bà của cô bé quàng khăn đỏ ra ngoài. Bà không được khoẻ. Cô bé quàng khăn đỏ đặt một ít đá và bỏ vào bụng chó sói. Khi chó sói tỉnh dậy, nó bỏ chạy vì nhìn thấy bác thợ săn. Nhưng chó sói không chạy được vì đá quá nặng khiến nó ngã xuống sàn.

Cô bé quàng khăn đỏ và bác thợ săn đưa Bà lên giường. Cô bé lấy bánh và nước trái cây cho bà, Bà dần dần hồi phục. Còn cô bé quàng khăn đỏ tự hứa "Mình sẽ không bao giờ rời khỏi đường chính nữa." Và cô bé đã giữ lời hứa. 

Audio book Chàng mục đồng và nàng thợ dệt

Link nghe audio + book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-Chang-muc-dong-va-nang-tho-det-513.html

Audio book Cây gậy thần

 
Link nghe audio + book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-Cay-gay-than-509.html


Audio book Nàng tiên cá- Hans Christian Andersen

Link nghe audio + book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-Nang-tien-ca-Truyen-co-tich-508.html

Giới thiệu cuôn sách:
Tít ngoài biển khơi kia, nước xanh hơn cánh đồng hoa mua biếc nhất, trong vắt như pha lê, nhưng sâu thăm thẳm, sâu đến nỗi neo buông không tới đáy, phải chồng chất vô số ngọn núi đá mới lên tới mặt nước. 
Chớ tưởng rằng đáy bể chỉ toàn là cát trắng. Nơi đấy, cỏ cây vẫn mọc, những loại cây kỳ diệu, thân lá mềm mại đến nỗi một gợn nước cũng có thể làm cho cây đu đưa. Cá lớn, cá bé lướt giữa những cành lá như chim bay qua các vòm cây trên mặt đất. Nơi sâu nhất, sừng sững lâu đài của vua Thủy Tề,
tường bằng san hô, cửa sổ cao hình cung nhọn, bằng hổ phách trong suốt, mái lợp toàn vỏ ốc, mở ra khép vào theo chiều nước. Thật là tráng lệ! Nguyên một trong những hạt ngọc nằm trong từng vỏ ốc cũng đủ trang sức cho mũ miện của một bà Hoàng Hậu rồi. Vua Thủy Tề góa vợ từ lâu, công việc trong cung do Hoàng Thái hậu điều khiển. Bà là người khôn ngoan, nhưng rất kiêu hãnh về dòng dõi quý tộc của bà. Bà cài tới mười hai con ngọc trai ở đuôi, trong khi những bà khác trong Hoàng tộc chỉ đeo đến sáu con là cùng. Bà có nhiều đức tính tốt, nhưng tốt nhất là bà rất mực yêu thương các cô cháu gái, các nàng công chúa nơi thủy cung. Các cô nàng đều xinh đẹp, riêng nàng út đẹp hơn cả. Nàng có làn da nhỏ mịn như cánh hồng, có đôi mắt xanh thẳm như nước biển. Nhưng nàng cũng giống các chị, không có chân, chỉ có một cái đuôi như đuôi cá.

Suốt ngày các nàng nô đùa trong những cung thất rộng rãi, hoa nở khắp các hốc tường. Cửa sổ bằng hổ phách mở rộng, cá tung tăng bơi vào như chim én bay vào nhà chúng ta khi cửa ngỏ. Chúng xán đến cho các công chúa vuốt ve.

Trước lâu đài là một vườn rộng, cành lá xanh thẫm, quả vàng lóng lánh, cánh hoa đỏ ửng tựa than hồng, cùng với cuộng hoa rung rinh không ngớt. Mặt đất toàn một thứ cát rất mịn, xanh như ngọn lửa diêm sinh. Một luồng ánh sáng xanh biếc huyền diệu chiếu tỏa khắp nơi. Khi gió lặng, sinh vật dưới đáy biển có thể nhìn thấy mặt trời lóng lánh như một ông hoa đỏ thắm đang tỏa ánh sáng xuống đáy biển.

Mỗi nàng công chúa có một khoảnh vườn nhỏ để có thể vun xới, trồng trọt theo sở thích. Nàng này sắn luống theo hình cá voi, nàng kia theo hình tiên cá, nàng út sắn luống thành hình tròn như vầng thái dương, trồng thuyền thành một loài hoa đỏ tía như mặt trời.
Tính tình nàng út trầm lặng và đoan trang. Trong khi các cô chị bày biện những vật kỳ lạ chìm theo những con tàu bị đắm, thì ngoài những bông hoa đỏ tía như mặt trời, nàng chỉ thích một bức tượng rất đẹp rơi xuống biển bữa nào. Ấy là tượng một cậu bé xinh xắn tạc bằng đá trắng như tuyết.

Nàng trồng bên pho tượng một nhánh liễu đỏ tía, liễu mọc rất nhanh, cành lá rậm rạp chiếu bóng màu tím xuống nền cát xanh. Nàng thích nghe nói chuyện về loài người sống trên mặt đất có hương thơm mà loài hoa dưới biển không có, trên ấy rừng lại xanh biếc và cá lại có đậu trên cành cây cất tiếng hót mê hồn. Vì nàng chưa hề trông thấy chim, nên Hoàng Thái hậu phải gọi chim là cá, không thì nàng không thể hiểu được.
Bà nói thêm rằng:

- Khi nào lên mười lăm tuổi cháu sẽ được phép ngồi trên mặt biển, ngồi dưới ánh trăng, trên một mõm đá mà nhìn tàu bè đi lại. Lúc đó cháu sẽ được tận mắt nom thấy rừng núi và thành phố.

Năm sau, cô chị cả mới đến tuổi mười lăm. Các nàng sinh năm một, vì thế nàng út còn phải đợi năm năm nữa mới mới được phép lên mặt biển xem trên ấy có những gì. Các nàng hứa sẽ lần lượt kể cho nhau nghe những điều mắt thấy trên mặt biển, vì bà Thái hậu chưa biết đấy đủ, còn vô khối cái mà các nàng tò mò muốn biết rõ hơn.

Người nóng ruột nhất là nàng út, vì nàng là người phải chờ đợi lâu nhất. Ban đêm, đứng bên cửa sổ, nhìn qua làn nước xanh sẫm, nàng thấy cả trăng sao. Qua làn nước, ánh trăng mờ nhạt đi, nhưng trăng sao lại to phìn ra khác thường, và mỗi lần chúng bị một vật gì che khuất như một đám mây lớn, nàng biết đó là một con cá voi đang bơi phía trên hay là một chiếc tàu lớn chở đầy người. Hẳn họ không ngờ rằng có một nàng tiên cá nhỏ nhắn đang lặng lẽ đứng dưới đáy biển với đôi tay trắng về phía con tàu.

Thế là đến tuổi mười lăm nàng công chúa cả được phép lên mặt biển.

Trở về, nàng kể lại hàng ngàn câu chuyện. Theo nàng, tuyệt nhất là được ngồi dưới ánh trăng trên bãi cát, khi bể lặng và nhìn thấy thành phố lớn gần bờ biển, có hàng trăm ánh đèn lấp lánh như sao sa, được nghe tiếng ca nhạc, tiếng xe cộ, tiếng người ầm ĩ, được trông thấy tháp nhà thờ, và nghe thấy tiếng chuông ngân vang.

Công chúa út chăm chú nghe chị kể. Chiều chiều, khi trở lại đứng bên cửa sổ nhìn qua làn nước xanh thẫm, tâm trí nàng bay bỗng về cái thành phố lớn có nhiều tiếng ồn ào, và lúc đó dường như có tiếng chuông ngân tới tận tai nàng.

Năm sau, chị hai được phép lên mặt nước để vùng vẫy thỏa thích. Nàng ló lên khỏi mặt nước vào lúc hoàng hôn và nàng cho rằng không còn gì đẹp bằng khung cảnh lúc ấy. Bầu trời như toàn bằng vàng, còn mây thì nhuộm một màu đỏ kỳ diệu. Gần nơi mặt trời lặn, một đàn thiên nga bay là là mặt nước trông như một dải dài bằng sa trắng. Chúng mất hút theo hướng ấy, rồi mặt trời lặn xuống nước, ánh hào quang vụt tắt trên mặt biển và trên các đám mây.

Năm sau nàng thứ ba được lên mặt nước. Nàng bạo dạn nhất trong năm chị em. Nàng bơi ngược dòng một con sông đổ ra biển và thế là nàng thấy được những đồi nho rực rỡ. Thành phố, lâu đài hiện ra sau dải rừng xanh. Chim hót ríu rít; mặt trời nóng bỏng đến nỗi nàng phải luôn luôn ngụp xuống nước cho mát da mặt.

Nàng trông thấy một đám trẻ con trần truồng nô đùa nhảy xuống nước trong một cái vịnh nhỏ. Nàng muốn vui chơi cùng chúng, nhưng chúng hoảng sợ bỏ chạy. Một con vật đen xì, một con chó mà nàng chưa hề thấy bao giờ, chạy tới. Nó sủa dữ dội đến nỗi nàng hoảng sợ, vội vã bơi nhanh ra biển khơi. Nhưng chẳng bao giờ nàng quên được núi rừng hùng vĩ, gò đống xanh tươi, và những đứa trẻ đáng yêu bơi lội rất giỏi mà chẳng cần đến đuôi cá.

Nàng thứ tư, vốn nhút nhát, thả mình đong đưa trên ngọn sóng, cho rằng không còn gì thú bằng. Mặt biển quanh nàng rộng tới hàng mấy dặm, bầu trời như một quả chuông vĩ đại bằng thủy tinh. Nhìn xa xa thấy tàu biển, nàng tưởng đó là giống chó bể.

Bầy cá heo nhào lộn trước mặt nàng, mấy con cá voi khổng lồ phun nước qua hai lỗ mũi làm cho nàng tưởng mình đang bơi giữa hàng trăm vòi nước đang phun.

Đến lượt nàng năm. Ngày sinh nàng vào mùa đông nên ngày đầu tiên trên mặt biển, cảnh vật nàng trông thấy không giống cảnh vật các chị nàng đã được mục kích. Bể xanh ngắt một màu. Xung quanh nàng những tảng băng nổi khổng lồ rập rờn trên mặt biển như là những viên ngọc quý lóng lánh và lớn hơn tháp chuông nhà thờ. Hình thù chúng rất quái dị. Nàng ngồi trên một tảng đá to nhất, gió đùa trên mái tóc, cá tung tăng bơi lặn xung quanh.
Chiều đến, mây đen phủ kín bầu trời, sấm sét nổi lên, từng đợt song đen ngòm nâng bỗng những tảng băng khổng lồ sáng rực dưới ánh chớp.

Tất cả tàu bè đều hạ buồm. Ai nấy đều kinh hãi. Riêng nàng tiên cá vẫn trầm lặng ngồi trên núi băng ngắm ngía những tia chớp nổ ran trên mặt biển ngầu bọt.

Thoạt mới lên mặt nước nàng nào cũng say mê với những cảnh vật mới lạ, nhưng dần dần được tự do đi lại các nàng đã thấy dửng dưng. Các nàng vội quay về lâu đài dưới nước và chỉ một tháng sau đã cho rằng không kỳ diệu bằng đáy biển.

Thường buổi chiều, năm chị em cầm tay nhau bơi lên mặt biển. Các nàng có giọng hát mê hồn, hay hơn bất cứ giọng hát nào trên trần gian.

Khi giông tố nổi lên, tưởng chừng như sắp đánh tàu bè, các nàng liền bơi đến trước mũi tàu, cất giọng mê hồn ca ngợi vẻ đẹp nơi đáy biển, khuyên các thủy thủ chớ có sợ gì và mời họ theo các nàng về thủy cung; nhưng thủy thủ chẳng hiểu gì và cho rằng đó là những tiếng gào thét của cơn giông tố.

Vả chăng, khi xuống đáy biển, họ chẳng thể nhìn thấy cảnh đẹp huy hoàng ở đấy, vì nếu tàu đắm họ sẽ chết đuối, và chỉ còn là những cái xác không hồn.

Chiều chiều, khi năm chị em rủ nhau đi, nàng út ở lại một mình, ngó theo các chị, những muốn khóc lên. Nhưng nàng là cá, không có nước mắt, nên lòng càng thêm đau đớn bội phần. Nàng thở dài: “Ước gì ta đủ mười lăm tuổi! Chắc rằng ta sẽ yêu cuộc đời và những con người trên ấy”.

Cuối cùng nàng đã đến mười lăm tuổi.
Bà bảo nàng:
- Thế là cháu đã trưởng thành. Lại đây để bà trang điểm cho, như các chị cháu.
Bà đặt tóc nàng một mũ miện hình hoa sen, dát ngọc, và ra lệnh cho tám con ngọc trai cặp vào đuôi nàng để tỏ rõ ngôi thứ của nàng.
Công chúa kêu lên:
- Đau quá!
Bà nàng bảo:
- Muốn đẹp thì phải đau một tí!

Nàng tiên cá chỉ muốn quẳng tất cả ngọc trai và mũ miện nặng trình trịch đi! Nàng thích trang điểm bằng những bông hoa nhỏ trồng trong vườn kia, nhưng nàng không dám trái lệnh bà Thái hậu.
- Cháu đi đây, bà ạ!
Nàng reo vừa lao mình lên mặt biển, nhẹ nhàng như bọt bong bóng.

Nàng lên tới mặt biển thì mặt trời lặn, mây còn ánh màu da cam, và trên bầu trời rực lửa, sao hôm đã lấp lánh sang ngời. Không khí êm đềm, mát mẻ, mặt biển phẳng như gương. Gió lặng. Một con thuyền có ba cột buồm đứng im phăng phắc, chỉ trương một cánh buồm. Thủy thủ đang nghỉ ngơi. Tiếng đàn, tiếng hát vọng ra và đến đêm, hang ngàn ngọn đèn lồng thắp sang trưng.

Quốc kỳ của tất cả các nước dăng lên trên thuyền và tung bay trước gió. Nàng tiên cá Bơi đến gần các cửa sổ ở mạn thuyền, và mỗi lần sóng nâng nàng lên, nàng nhìn được vào cả bên trong thuyền. Trong ấy có rất nhiều người ăn mặc sang trọng, người mặc đẹp nhất là một Hoàng tử chạc mười sáu tuổi. Hôm nay chính là ngày hội mừng sinh nhật hoàng tử. Thủy thủ nhảy múa trên thuyền và khi Hoàng tử bước ra, hàng trăm pháo hoa bay vụt lên không trung.

Pháo hoa rực sáng như ban ngày làm nàng tiên cá sợ hãi lặn xuống nước. Nàng lại nhô đầu lên và tưởng chừng như tất cả các sao trên trời rơi xuống đầu nàng. Chưa bao giờ nàng được xem đốt pháo hoa. Có bông đỏ rực như mặt trời vừa quay tít vừa rít lên, có bông bay vút lên bầu trời xanh và tất cả phản chiếu xuống mặt biển trong vắt. Trên thuyền sáng rực, nhìn rõ từng vật, nhìn người lại càng rõ hơn. Hoàng tử mới đẹp làm sao! Chàng tươi cười thân mật nắm tay mọi người, giữa tiếng nhạc vang lừng trong màn đêm lặng lẽ.

Đêm đã khuya, nhưng nàng công chúa vẫn không rời mắt khỏi con thuyền và chàng Hoàng tử đẹp trai. Đèn tắt, không còn pháo hoa, không còn tiếng đại bác nổ nữa. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng biển cả gầm thét. Nàng tiên cá vẫn ngồi trên sóng, nhìn qua cửa sổ ở mạn thuyền.

Gió nổi, thuyền nhổ neo, buồm lần lượt căng lên rồi sóng lớn mãi, mây đen kéo đến. Chẳng bao lâu sấm chớp nổi lên và một cơn phong ba khủng khiếp đổ tới. Thủy thủ vội vã hạ buồm. Chiếc thuyền cheo leo trên mặt biển đang động lên dữ dội. Từng đợt sóng dâng lên, đen ngòm, cao như những ngọn núi khổng lồ, hăm dọa đổ sập vào các cột buồm. Con thuyền dâng lên hạ xuống theo những đợt sóng ngầu bọt. Thủy thủ rất lo lắng, còn nàng tiên cá thấy cảnh tượng ấy lại lấy làm thích thú.

Những tấm vân dầy gãy gập trước những đợt sóng hung hãn. Con thuyền vỡ tan ra, cột buồm chính gãy đôi như một cây sậy, thuyền nghiêng sang một bên, nước ập vào khoang.
Lúc đó nàng tiên cá mới hiểu là người trên thuyền đang gặp cơn phong ba nguy hiểm, và chính nàng cũng phải cẩn thận để khỏi va vào các mảnh thuyền vỡ tung đang trôi lềnh bềnh. Có lúc trời tối ngòm đến nỗi nàng không còn phân biệt được vật gì nữa; nhưng ánh chớp lóe lên làm nàng nhận ra từng người trên thuyền. Nàng chỉ chú ý nhìn theo chàng hoàng tử trẻ tuổi và khi thuyền chìm hẳn, nàng thấy chàng cũng chìm theo.

Thoạt đầu nàng mừng rỡ, tưởng rằng sẽ được gặp chàng nơi đáy biển. Nhưng nàng sực nhớ rằng con người không sống được dưới nước và khi tới giang sơn của vua Thủy tề thì chàng đã chết. Chết ư? Không, không thể để cho chàng chết được!

Nàng nâng đầu chàng lên khỏi mặt nước và cùng chàng phó mặc cho sóng cuốn.

Sáng hôm sau, cơn bão táp đã qua, nhưng chẳng còn dấu vết gì của con thuyền nữa. Mặt trời đỏ ửng chói lọi trên mặt biển, Hoàng tử trông như còn sống, nhưng đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Nàng tiên cá hôn lên trán chàng. Người chàng đã lạnh toát như pho tượng cẩm thạch trong vườn hoa của nàng. Nàng hôn mãi lên trán chàng, lòng tha thiết mong chàng sống lại.

Đột nhiên, nàng trông thấy đất liền, thấy những rặng núi cao, một màu xanh biếc, đỉnh phủ tuyết, lóng lánh như đàn thiên nga đang ngủ. Dưới chân núi, gần bờ biển, có những khu rừng đẹp đẽ xanh tươi và một ngôi nhà, nhà thờ, nhà tu hay nhà gì đó, nàng chẳng rõ.

Chanh, cam đầy vườn, dừa mọc trước cửa. Biển xói vào bờ tạo thành một cái vịnh nhỏ, nước lặng và sâu, có núi đá bao quanh. Nàng dìu Hoàng tử về phía đó, đặt chàng lên bãi cát mịn và cẩn thận nâng cao đầu chàng lên.

Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi trong ngôi nhà trắng xinh xắn và một đoàn thiếu nữ chạy ra vườn. Nàng tiên cá vội bơi ra nấp sau một tảng đá, lấy rong biển phủ đầu và trước ngực để khỏi lộ bộ mặt kiều diễm. Nàng cố ý theo dõi xem chàng Hoàng tử tội nghiệp sẽ ra sao.

Một lát sau, có một thiếu nữa đi tới. Lúc đầu, cô ta sợ, nhưng các cô khác đã kéo đến. Nàng tiên cá nhìn thấy Hoàng tử đã hồi tỉnh và mỉm cười với các thiếu nữ. Chỉ riêng với nàng, người đã cứu chàng, nhưng chàng không hề biết, chàng không tặng một nụ cười nào cả. Thế là nàng buồn thỉu. Và khi Hoàng tử đã vào khuất trong ngôi nhà, nàng lặn xuống nước, quay về nơi thủy cung.

Từ đó, sáng, chiều, nàng bơi lên nhìn lại nơi nàng đã đặt Hoàng tử. Nàng thường thấy có người ra hái trái cây, nàng thấy tuyết lóng lánh trên núi cao, nhưng nàng chẳng thấy Hoàng tử, và cứ thế nàng lại trở về, càng buồn bã hơn.

Niềm an ủi độc nhất của nàng là ngồi trong vườn, ôm lấy pho tượng cẩm thạch trông giống Hoàng tử như đúc. Nàng chẳng còn thiết hoa nữa, bỏ mặc hoa lan ra cả lối đi, cuốn cành cuốn lá vào cả các cây lớn.

Cuối cùng, không chịu nổi nữa, nàng kể lể nỗi niềm với một cô chị. Các chị khác cũng được biết chuyện và kể lại với vài bạn giáng liềng thân thiết nhất, trong số đó, có một cô biết rõ giang sơn của Hoàng tử.
- Đi nào, cô em bé bỏng!

Các chị gọi nàng rồi tay cầm tay, họ nối đuôi nhau bơi lên mặt nước, tới trước lầu Hoàng tử.
Lầu này xây bằng các thứ đá màu rực rỡ và có những cầu thang lớn bằng cẩm thạch chạy xuống tận mắt nước. Mặt lầu cuộn tròn và thếp vàng lộng lẫy. Giữa các cột, quanh lầu, có những bức tượng bằng cẩm thạch trông như người thật. Nhìn qua cửa sổ cao, người ta thấy những căn phòng lộng lẫy, trải thảm lụa, và những bức chân dung kỳ diệu dăng đầy tường. Chính giữa căn phòng lớn, một vòi nước phun lên tới tận mái tròn. Từ mái lầu mặt trời rọi xuống mặt nước và cỏ cây mọc trong bể cạn.

Bây giờ nàng tiên cá đã biết nơi Hoàng tử ở. Từ đó, chiều và đêm, nàng thường trở lại đấy, ngồi trên mặt biển. Nàng còn bơi xa hơn các cô chị, bơi sâu vào đất liền, đến tận con kênh đào chảy dưới chân các bể bực thang lộng lẫy xây bằng đá cẩm thạch. Nàng ngồi đó ngắm ngía Hoàng tử, còn Hoàng tử thì tưởng rằng chỉ có một mình mình dưới ánh trăng.

Thường vào buổi chiều Hoàng tử dạo chơi giữa tiếng đàn nhạc, trên một con thuyền mắc đầy cờ xí. Lúc đó, nàng vượt hẳn lên mặt nước, gió đùa trên mái tóc màu bạc của nàng, trông hệt như một con thiên nga đang giương cánh.

Thường thường, nghe những người dân chài đánh cá ban đêm ca tụng Hoàng tử, nàng cảm thấy sung sướng, vì đã cứu chàng đêm nào bập bềnh, ngoắc ngoải giữa làn sóng, và nàng lại càng sung sướng mỗi khi nghĩ đến lúc ôm ghì đầu chàng vào ngực mà hôn. Nhưng chàng đâu có hề hay biết chuyện ấy mà nghĩ đến chuyện an ủi nàng. Càng ngày nàng thấy yêu mến loài người, nàng lại càng muốn gần họ, càng muốn sống với loài người trên cái thế giới rộng hơn giang sơn của nàng rất nhiều. Loài người có thể lướt trên sóng bằng thuyền bè, có thể leo lên tận đỉnh núi cao tít. Rừng núi, động ruộng của họ rải ra đến tân chân trời bao la. Còn biết bao nhiêu điều nàng muốn rõ mà các chị nàng không giải đáp cho nàng được.

Nàng tìm đến bà Thái hậu là người biết rõ về cái thế giới bên trên, mà nàng gọi là “xứ trên bể”. Nàng hỏi:
- Bà ơi, nếu loài người không chết đuối thì họ có thể sống vĩnh viễn được không? Họ có chết như chúng ta ở dưới bể không?
Thái Hậu bảo:
- Có chứ, họ chết và đời họ còn ngắn hơn đời chúng ta nữa kia! Chúng ta có thể sống tới ba trăm năm, nhưng khi lìa đời chúng ta sẽ biến thành bọt sóng và không có mồ mả để được chôn cất giữa những người thân yêu. Linh hồn chúng ta không tồn tại được lâu nên ta không thể hóa thành kiếp khác được, cũng ví như cây rong bể đã cắt rồi là hết xanh tươi. Loài người, trái lại có một linh hồn bất tử, ngay cả khi thân thể đã nằm im trong nấm mồ, linh hồn họ lúc ấy bay lên không trung. Cũng như chúng ta bơi lên mặt nước để nhìn đất liền, linh hồn họ bay lên những miền mà chúng ta không thể nào nhìn thấy được.

Nàng tiên cá buồn bã hỏi:
- Sao chúng ta lại không có một linh hồn bất diệt? Cháu sẵn sàng hiến ba trăm năm của cháu để được thành người, dù chỉ sống có một ngày để linh hồn được lên Thiên đàng.
Thái Hậu bảo:
- Cháu đừng nghĩ nhảm; dù sao chúng ta còn sung sướng hơn loài người nhiều lắm.
- Thế là cháu sẽ phải chết và hóa thành bọt bể ư? Lúc đó chẳng còn nghe thấy tiếng sóng vỗ nhịp nhàng, chẳng còn nhìn thấy hoa nở và mặt trời ửng hồng sao?
Thái Hậu nói thêm:
- Không cháu ạ, chỉ cần có một người yêu thương cháu thiết tha hơn cha mẹ. Nếu tâm hồn và tình yêu người đó dồn cả cho cháu và có một đức cha đặt tay cháu vào người đó thì lúc ấy hồn người đó truyền qua cháu và cháu sẽ được hưởng phần hạnh phúc dành riêng cho loài người. Nhưng việc đó không bao giờ có được. Ở dưới đáy bể chúng ta cho cái đuôi cá là đẹp nhất thì loài người cho là gớm ghiếc. Họ cho là cặp chân nặng nề của họ mới là đẹp kia!

Nàng tiên cá thở dài buồn bã nhìn cái đuôi của mình.
Thái Hậu bảo:
- Thôi cháu đi vui chơi với bà. Bà cháu ta sẽ nhảy nhót cho thỏa ba trăm năm của chúng ta. Cuộc đời như thế cũng đủ lắm. Cháu đi với bà! Tối nay có đại hội khiêu vũ trong cung đấy.
Thật vậy, ở trên mặt đất, người ta không thể tưởng tượng được một khung cảnh lộng lẫy đến thế. Gian phòng khiêu vũ rộng lớn, tường và trần toàn bằng một thứ thủy tinh dầy, trong suốt. Hàng mấy trăm con ngao khổng lồ xanh đỏ xếp thành hai hàng dọc; cạnh chúng ta là những ngọn đuốc có ánh lửa xanh lam chiếu tỏa khắp phòng trông hệt như một bể ánh sáng rực rỡ. Hàng ngàn cá lớn, cá con, vẩy đỏ, vẩy vàng, vẩy bạc, bơi tung tăng bên ngoài tường kính.

Thanh niêm nam nữ sống dưới đáy biển nhảy múa và ca hát êm ái trên một dòng nước chảy giữa gian phòng; loài người không thể có giọng hát hay đến thế. Nàng công chúa út hát hay nhất.

Mọi người hoan nghênh nàng và có lúc nàng sung sướng nghĩ rằng giọng hát của nàng có thể hay nhất trần gian, trên đất liền cũng như trên mặt biển. Nàng chợt nghĩ đến thế giới trên mặt đất. Nàng không thể nào quên được chàng Hoàng tử trẻ tuổi và cảm thấy đau khổ vì không thể có được một linh hồn bất diệt. Giữa lúc mọi người vui chơi, ca hát, nàng lẩn tránh ra ngoài lâu đài của vua cha rồi ngồi âu sầu trong khu vườn nhỏ của mình. Bỗng nhiên nàng nghe thấy những tiếng động truyền qua làn nước biển vọng tới nàng.

Nàng nghĩ thầm:
- Chắc là tiếng chàng, người mà ta luôn luôn nghĩ tới, người mà ta yêu quý hơn cha mẹ, người mà ta muốn gửi gắm cả cuộc đời. Ta dám làm tất cả mọi việc để được gần chàng, để được có một linh hồn bất diệt. Trong lúc các chị còn đang mãi múa trong lâu đài của vua cha, ta thử tìm đến mụ phù thủy mà cho đến bây giờ ta vẫn khiếp sợ, may ra mụ có thể khuyên bảo và giúp ta điều gì.

Nghĩ thế nàng bơi đến động của mụ phù thủy, ở dưới cái vưc xoáy đang gầm thét.
Nàng chưa hề qua nẻo đường này, một con đường chẳng có hoa và rong rêu gì cả, chỉ có cát mịn rải tới tận miệng vực, nước xoáy lồng lộng như dưới bánh cối xay máy.

Nàng vượt qua làn sóng vào tận xào huyệt của mụ phù thủy, ở giữa một khu rừng kỳ lạ. Cây cối, bờ bụi đều là những loại san hô, nửa động vật, nửa thực vật, trông như những con rắn trăm đầu mọc từ dưới đất lên, cành cây giống như những con rắn trăm đầu mọc từ dưới đất lên, cánh cây giống như những cánh tay dài nhầy nhụa.

Nàng công chúa kinh hãi đứng trước nhà mụ phù thủy, tim đập mạnh. Nàng toan bỏ chạy nhưng nghĩ đến hoàng tử và linh hồn con người nàng trở nên can đảm. Nàng quấn mớ tóc dài để tránh không cho những con san hô nắm được, khoanh tay vào trước ngực, bơi rõ nhanh như cá, lách qua các con san hô gớm ghiếc đang giơ những cánh tay khủng khiếp về phía nàng. Nàng thấy hàng trăm cánh tay của chúng, hệt như những cái kim sắt, cặp chặt lấy những bộ xương trắng hếu của những người bị chết đuối, những xác súc vật, và cái làm cho nàng kinh hãi nhất là có cả xác một nàng tiên cá.

Cuối cùng, nàng đến một cánh đầm lầy, lúc nhúc những con rắn gớm ghiếc, ở giữa là nhà mụ phù thủy xây bằng sọ những người chết chìm. Trước cửa nhà, mụ phù thủy đang ngồi cho con cóc ăn như loài người mớm thức ăn cho chim bạch yến vậy.

Mụ bảo:
- Ta biết ngươi muốn gì rồi. Hỡi nàng công chúa xinh đẹp, ngươi thật là điên rồ, ngươi sẽ bị đau khổ, nhưng ta cũng cứ giúp ngươi. Muốn cho hoàng tử yêu ngươi và chia sẻ linh hồn với ngươi, ngươi phải vứt bỏ cái đuôi cá và thay vào đó đôi chân như của loài người. Ngươi đến thật đúng lúc, vì nếu ngươi đến sau đêm nay thì một năm nữa ta mới có thể giúp ngươi được. Ta sẽ chế cho ngươi một liều thuốc, rồi ngươi bơi vào bờ, uống hết liều thuốc đó và sẽ biến thành một người con gái đẹp tuyệt trần. Dáng đi của ngươi sẽ nhẹ nhàng uyển chuyển như một vũ nữ, nhưng cứ mỗi bước đi ngươi sẽ thấy như kim châm và ứa máu chân ra. Nếu ngươi chịu được đau đớn ta sẽ giúp ngươi.
- Tôi xin chịu hết, nàng tiên cá vừa run rẩy trả lời vừa nghĩ đến hoàng tử và linh hồn bất diệt.

Mụ phù thủy bảo:
- Nhưng hãy nghĩ cho kỹ. Một khi đã biến thành người rồi ngươi không thể trở thành thủy nữ nữa được nữa. Không bao giờ ngươi gặp lại các chị ngươi, được quay về thủy cung nữa. Và nếu ngươi không chiếm được tình yêu của Hoàng tử để chàng yêu quý ngươi hơn cha mẹ chàng, nếu chàng không chịu làm lễ thàn hôn với ngươi thì ngươi không thể có linh hồn bất diệt được. Ngay sáng sau hôm hoàng tử lấy người khác làm vợ, tim ngươi sẽ tan nát và ngươi sẽ biến thành bọt biển.
- Tôi xin chịu đựng cả, nàng công chúa nhắc lại, mặt tái nhợt như người chết.

Mụ phù thủy bảo:
- Nhưng hãy nghĩ cho kỹ. Một khi đã biến thành người rồi ngươi không thể trở thành thủy nữa được nữa. Không bao giờ ngươi gặp lại các chị ngươi, được quay về thủy cung nữa. Và nếu ngươi không chiếm được tình yêu của hoàng tử để chàng yêu quý ngươi hơn cha mẹ chàng, nếu chàng không chịu làm lễ thàn hôn với ngươi thì ngươi không thể có linh hồn bất diệt được. Ngay sáng sau hôm hoàng tử lấy người khác làm vợ, tim ngươi sẽ tan nát và ngươi sẽ biến thành bọt biển.
- Tôi xin chịu đựng cả, nàng công chúa nhắc lại, măặt tái nhợt như người chết.
- Nhưng ngươi phải trả công cho ta không phải là ít. Giọng hát của ngươi hay nhất nơi đáy biển này, và ngươi tưởng rằng sẽ dùng trò mê hoặc hoàng tử, nhưng chính giọng hát ấy ngươi phải trao cho ta. Ta muốn đổi liều thuốc của ta lấy cái quý báu nhất của ngươi kia, vì chính ta cũng phải chích máu của ta để chế thành liều thuốc cho ngươi uống. Nó sẽ công hiệu như một thanh kiếm hai lưỡi vậy.

Thủy nữ lo lắng:
- Nhưng nếu mụ lấy mất giọng hát của tôi thì tôi chẳng còn gì nữa ư?
- Còn cái sắc đẹp, cái dáng đi nhẹ nhàng, duyên dáng và đôi mắt tình tứ của ngươi. Bấy nhiêu cũng đủ say đắm một con người rồi. Thế nào? Hay ngươi lại sợ rồi? Thè cái lưỡi con con ra cho ta cắt để đổi lấy liều thuốc.
- Được, thủy nữ đáp.

Liền đó, mụ phù thủy lấy một cái nồi ra để pha thuốc.
- Sạch sẽ vẫn là một thói tốt! Vừa nói mụ vừa lấy một búi toàn là rắn để chùi nồi.
Rồi mụ rạch ngực cho máu chảy xuống và thêm hết vị thuốc này đến vị thuốc khác cho vào trong nồi. Một làn khói dầy đặc bốc lên. Cuối cùng liều thuốc đã chế xong, lúc này trong suốt như nước.
- Đây cầm lấy.

Mụ phù thủy nói rồi cắt luôn lưỡi nàng tiên cá. Thế là từ đấy nàng tiên cá không thể hát và nói được nữa.
- Khi qua rừng, nếu loài san hô định bắt ngươi cứ rẩy cho chúng vài giọt nước này.
Nàng tiên cá chẳng cần phải làm thế. Các thủy quái vừa thấy bình thuốc lóng lánh như sao trong tay nàng đã sợ hãi rụt tay lại. Nàng vượt qua cánh rừng và các vực sâu bình yên vộ sự.
Nàng đã lại nhìn thấy lâu đài của vua cha. Các ngọn đuốc nơi phòng lớn đã tắt, mọi người đang say sưa yên giấc. Nàng chẳng dám đánh thức ai cả, nhất là bây giờ nàng đã câm rồi. Nàng sắp phải vĩnh viễn lìa xa tất cả. Lòng nàng se lại vì đau khổ. Nàng lén ra vườn hái trong một khoảnh vườn của các chị một bông hoa, gửi hàng nghìn chiếc hôn về phía lâu đài, rồi bơi qua làn nước xanh thẳm, nhoi lên mặt biển.

Mặt trời chưa mọc, hoàng tử đang bước lên trên những bậc thang cẩm thạch rực rỡ. Trăng chưa lặn, tỏa một ánh sáng dịu dàng. Nàng tiên cá uống liều thuốc nóng bỏng. Nàng thấy hình như có một thanh kiếm hai lưỡi đâm xuyên qua làn da thịt mềm mại, và nàng nằm đấy, ngất đi. Khi mặt trời chiếu sáng trên ngọn sóng, nàng tỉnh dậy, và thấy người đau nhói. Chàng hoàng tử trẻ tuổi đã đứng trước mặt, đôi mắt đen nhánh chăm chú nhìn nàng. Nàng nhìn xuống thấy đuôi cá đã biến mất, thay vào đấy là một cặp chân trắng muốt như chân của một người con gái. Thấy mình thân thể lõa lồ nàng vội lấy làn tóc dài quấn vào người như một cái áo choàng. Hoàng tử hỏi nàng là ai, ở đâu, nàng nhìn chàng với đôi mắt xanh thẳm, âu yếm nhưng buồn rầu, không nói được một lời.

Hoàng tử cầm tay dắt nàng về lầu. Mỗi bước đi, đúng như lời mụ phù thủy nói, nàng cảm thấy như giẫm lên kim hay gốc rạ phát nhọn, nhưng nàng cố chịu đựng, không hề kêu ca. Nàng đi bên chàng, nhẹ như bông hồng, và chàng, cũng như mọi người trong lầu, đều say mê dáng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng của nàng.

Người ta mặc cho nàng quần áo lượt là. Trong lâu đài này, nàng là người đẹp nhất, nhưng chẳng biết nói mà cũng chẳng biết hát. Rất nhiều cung nữ, quần áo lụa dát vàng, đến ca hát trước hoàng tử, vua và hoàng hậu, người nào hát cũng hay và được hoàng tử vỗ tay khen ngợi trước tiên. Nàng tiên cá rất buồn rầu vì biết rằng mình còn có thể hát hay hơn thế.

Nàng nghĩ:
- Ôi! Nếu chàng biết được rằng ta đã phải vĩnh viễn hy sinh giọng hát của ta chỉ vì muốn được sống bên chàng!

Hát xong, cung nữ nhảy múa theo điệu nhạc rất du dương. Nàng tiên cá liền giơ cao đôi cánh tay nõn nà, nhấc gót lên, đầu gót chân lướt trên mặt sàn, cất bước nhảy múa một bài tuyệt đẹp. Mỗi cử chỉ làm tôn vẻ đẹp của nàng lên và đôi mắt nàng làm xúc động tâm hồn hơn các cung nữ.

Mọi người đều ngất ngây, nhất là hoàng tử. Chàng gọi nàng là cô bé lạc loài. Nàng vẫn tiếp tục nhảy múa, mặc dầu mỗi lần chạm chân xuống đất nàng cảm thấy đau đớn như giẫm lên gốc rạ vót nhọn. Hoàng tử lưu nàng lại và cho phép nàng ngủ trên chiếc đệm nhung, ngay trước cửa phòng mình. Hoàng tử còn cho may một bộ nam phục để nàng có thể cưỡi ngựa đi chơi cùng chàng. Hai người đi dạo qua những cánh rừng thơm ngát, cành lá xanh tươi rủ xuống vuốt ve vào vai họ, trên cành chim hót líu lo. Nàng cùng hoàng tử leo lên núi cao. Khi mọi người nhìn thấy chân nàng đẫm máu nàng vẫn mỉm cười và cùng chàng leo lên mãi đến khi thấy mây bay dưới chân tựa như những đàn chim bay từng đàn về xứ nóng.

Khi mọi người đã ngủ yên trong lâu đài, nàng ngồi xuống bậc thang cẩm thạch bên bờ biển, dúng đôi chân nóng bỏng xuống nước lạnh cho dịu cơn đau. Dần dần chân bớt đau, nàng nhìn biển cả, chạnh lòng nhớ đến những người thân yêu dưới đáy biển. Nàng bỗng thấy các chị đang cầm tay nhau hiện trên mặt biển, vừa bơi vừa hát véo von. Nàng vẫy họ và các chị đã nhận ra nàng, nói cho nàng biết nỗi âu sầu từ khi nàng bỏ đi. Từ đấy đêm nào các chị cũng đến, và có lần nàng trông thấy cả bà Thái Hậu là người đã hàng bao năm nay không lên đến mặt biển; nàng trông thấy cả vua Thủy tề, đầu đội mũ miệng vàng. Hai ngài giơ tay về phía nàng, nhưng không dám vào gần bờ như các chị nàng.

Mỗi ngày thủy nữ càng yêu hoàng tử, nhưng hoàng tử chỉ yêu nàng như yêu một người em gái hiền hậu, dễ thương thôi. Chẳng hề biết rằng nếu chàng không lấy nàng thì nàng sẽ không thể nào trở thành người có linh hồn bất diệt được và sau ngày chàng lấy người khác làm vợ, nàng sẽ phải biến thành bọt biển.

Anh không yêu em hơn tất cả mọi người sao?
Đôi mắt người thủy nữ hình như hỏi vậy khi hoàng tử xiết chặt người nàng trong tay và hôn lên trán nàng.
Hoàng tử bảo nàng:
- Đúng lắm, ta yêu em vì em có một tấm lòng tốt hơn cả. Em là bạn quý nhất của ta. Em giống hệt như một thiếu nữ mà ta đã gặp, nhưng rồi có lẽ ta chẳng bao giờ gặp nữa. Khi đó ta đang ở trên một chiếc tàu bị đắm. Sóng biển đánh giạt ta vào một nhà tu, nơi có nhiều thiếu nữ đã nguyện dốc lòng đi theo Thượng đế. Nàng trẻ nhất thấy ta nằm sóng sượt trên mặt biển đã cứu ta thoát chết. Ta chỉ gặp nàng có một lần, nhưng chỉ có nàng là người ta có thể yêu được thôi. Em giống hệt nàng và gợi lại hình ảnh nàng trong tâm trí ta. Nàng đã đi tu, nhưng nàng đã cử em đến đây như một sứ giả của tình bạn. Chẳng khi nào ta còn được gặp nàng nữa.

Nàng tiên cá nghĩ thầm:
- Trời ơi! Chàng không biết, chính ta đã cứu chàng thoát chết. Chính ta đã vượt sóng đưa chàng đến tận nhà tu trong rừng. Chính ta đã nấp sau tảng đá mong mỏi có người thấy mà cứu chàng, và chính ta đã trông thấy người con gái mà chàng yêu hơn ta.

Nàng không khóc được, nhưng thở dài não ruột, tự nhủ:
- Chàng đã chẳng bảo rằng cô ta đi tu hay sao? Như thế thì chẳng bao giờ cô ta được ra và họ chẳng thể gặp nhau được. Còn ta, ta sống gần hàng ngày trông thấy chàng, ta muốn được hầu hạ, yêu quý chàng và hiến dâng cho chàng cả cuộc đời của ta.

Trong cung, người ta đã bàn tán đến chuyện hoàng tử sắp lấy một nàng công chúa xinh đẹp, con vua nước giáng liềng. Người ta đã chuẩn bị một chiếc tàu trang hoàng lộng lẫy.
Nhân dân đồn đại:
- Hoàng tử nói là đi viếng thăm nhà vua, nhưng chính là sang xem mặt công chúa. Hoàng tử mang theo rất nhiều tùy tòng.
Nàng tiên cá mỉm cười, lắc đầu vì nàng biết rõ hơn ai hết ý định của hoàng tử. Hoàng tử nói với nàng:
- Phải, chính ta đi xem mặt công chúa, vì vua cha và hoàng hậu bắt buộc ta, nhưng cha mẹ chẳng thể bắt buộc ta phải cưới công chúa được, chắc chắn là công chúa không thể nào giống được người thiếu nữ trong nhà tu. Nếu ta lấy vợ, người đó sẽ là “nàng”, hay là em người em gái lạc loài, giống hệt như “nàng”, chỉ nói bẳng mắt mà không nói bằng lời.

Nói rồi chàng hôn lên đôi môi đỏ thắm, mâm mê bộ tóc dài của nàng ép đầu nàng vào ngực chàng. Suốt đêm đó nàng tiên cá đáng thương mơ được sống hạnh phúc và có một linh hồn bất diệt như loài người.
Khi tàu sửa soạn xong, hoàng tử hỏi nàng:
- Em câm của ta, em không sợ biển cả đấy chứ?

Rồi chàng nói về những cơn giông tố, về cảnh trời yên bể lặng, về những con cá biến kì dị.
Nghe chàng nói, nàng mỉm cười, vì nàng biết rõ đáy biển hơn bất cứ một người nào.

Một đêm trăng, khi mọi người đã yên ngủ, trừ người hoa tiêu, nàng cúi trên thành tàu nhìn qua làn nước biếc, tưởng như nhìn thấy lâu đài của cha nàng. Bà nàng ngồi đó nhìn con tàu qua làn sóng đang cuốn lên dữ dội. Nàng vẫy tay ra hiệu muốn nói cho các chị biết rằng mình rất sung sướng, nhưng chợt có một anh thủy thủ đến, các chị vội lặn xuống nước. Anh thủy thủ tưởng rằng đấy chỉ là một đám bọt sóng.

Sáng hôm sau, tàu cập bến tại kinh đô nước giáng liềng. Chuông nhà thờ kéo vang, lính tráng mang cờ, súng cắm lưỡi lê, dàn thành cơ đội để duyệt binh. Mỗi ngày có những cuộc vui mới; yến tiệc, khiêu vũ liên tục, nhưng nàng công chúa vẫn chưa về. Người ta nói rằng hiện nàng đang ở một nhà tu xa để trau dồi đức hạnh theo lễ giáo của các vua chúa. Cuối cùng, nàng đã về.

Thủy nữ nóng lòng muốn biết mặt người con gái có sắc đẹp lừng danh ấy. Nàng đã phải công nhận điều đó. Nàng chưa bao giờ thấy một người dễ thương, có làn da mịn màng, đôi mắt xanh thẳm lóng lánh dưới hàng lông mày đen và dài như vậy.

Hoàng tử reo lên:
- Chính em, chính em đã cứu ta khi ta mê man trên bãi biển.
Rồi chàng ôm lấy người vợ chưa cưới và bảo nàng tiên cá:
- Hạnh phúc quá! Điều mơ ước tha thiết nhất đời ta đã thực hiện được. Cô bạn quý mến của ta ơi, em hãy chia xẻ hạnh phúc với ta!

Nàng công chúa thủy cung hôn tay hoàng tử, nhưng cảm thấy cõi lòng tan nát. Ngày cưới chàng sẽ là ngày nàng từ gĩ cõi trần và biến thành bọt biển.

Chuông tất cả nhà thờ khua vang, sứ giả chạy khắp phố phu7o2ng báo tin công chúa kết hôn. Trên khắp các nhà thờ, dầu thơm bốc lên nghi ngút trong những cây đèn bạc quý giá. Các cha cố lắc lư đỉnh trầm; cặp vợ chồng mới cầm tay nhau nhận phước trước đứa giám mục. Nàng tiên cá bận áo lụa thêu vàng, nâng đuôi áo của công chúa. Nhưng nàng chẳng còn nghe thấy tiếng nhạc du dương, chẳng còn trông thấy lễ cưới tưng bừng. Nàng còn phải nghĩ đến cái chết đêm nay và tất cả những gì sẽ mất đi, đối với nàng, trên thế gian này.

Ngay đêm đó, cặp vợ chồng mới cưới trở lại con tàu giữa tiếng súng chào và cờ bay phấp phới. Chính giữa tàu là cán lều có căng màn đỏ rực thêu vàng, nơi mà cặp vợ chồng mới cưới sẽ nghỉ đêm.

Gió căng buồm và tàu lướt nhẹ nhàng trên làn nước trong vắt.

Đêm đến, người ta đốt đuốc sáng trưng, thủy thủ nhảy múa vui vẻ trên boong. Nàng tiên cá nhớ lại đêm đầu tiên nàng được phép lên mặt biển. Nàng đã được trông thấy một cuộc dạ hội tưng bừng náo nhiệt như đêm nay. Lúc này nàng còn đủ can đảm để khiêu vũ; nàng nhảy múa nhẹ như én liệng làm mọi người phải thán phục; chưa bao giờ nàng nhảy đẹp như đêm nay. Chân bước như giẫm lên gốc rạ vót nhọn, nhưng nàng đâu có cảm thấy đau, vì còn có một nỗi đau khổ mãnh liệt hơn đang dày vò tâm can nàng. Nàng biết rằng đêm nay là đêm cuối cùng nàng được nhìn thấy con người mà vì ai nàng lìa bỏ cha mẹ, quê hương, hy sinh tiếng nói và giọng hát huyền diệu, và ngày lại ngày, nàng đã phải âm thầm chịu đựng bao nhiêu nỗi đau đơn ê chề mà không ai biết tới. Đêm nay là đêm cuối cùng nàng được thở chung bầu không khí với người đó, nàng được nhìn thấy biển sâu và sao trời vằng vặc. Một đêm sâu thẳm, vĩnh viễn, một đêm vô tri vô giác, không mơ, không mộng, đang chờ đón nàng, chỉ vì nàng không có và chẳng hề có một linh hồn bất diệt được.

Cuộc vui rộn rã trên tàu kéo dài đến nửa đêm; nàng tiên cá đang thương vẫn tươi cươi và nhảy múa, nhưng đã chết cã cõi lòng. Hoàng tử ôm luôn người vợ xinh đẹp, nàng đùa vào mái tóc của chàng và họ khoác tay nhau vào nghỉ trong căn lều lộng lẫy.

Tàu trở lại yên tĩnh. Hoa tiêu ngồi trong buồng lái. Nàng tiên cá dựa vào dây buồm và đưa mắt nhìn ánh bình minh ló lên ở phương đông. Nàng biết chắc rằng ánh thái dương đầu tiên sẽ giết chết nàng ngay tại chỗ.

Bỗng nàng thấy các chị nàng nổi lên, trông mặt họ cũng tái mét, chẳng kém gì nàng, mớ tóc dài đã bị cắt cụt, không còn phất phơ trước gió nữa. Họ nói:
- Các chị đã biếu mụ phù thủy tất cả tóc để cứu em khỏi cái chết ngày hôm nay. Mụ đã cho lại các chị con dao găm này đây. Trước Trước khi mặt trời mọc, em phải cắm nó vào tim hoàng tử. Hễ máu chàng chảy xuống chân em, lập tức đôi chân sẽ biến thành đuôi cá. Em sẽ trở thành nàng tiên cá, nhảy xuống nước là sống đủ ba trăm năm cho đến ngày hóa thành bọt biển. Nhưng mau lên em! Chàng hay em, một trong hai người, phải chết lúc mặt trời mọc. Vì em mà Thái Hậu buồn phiền đến nỗi cũng phải để cho mụ phù thủy

Trước khi mặt trời mọc, em phải cắm nó vào tim hoàng tử. Hễ máu chàng chảy xuống chân em, lập tức đôi chân sẽ biến thành đuôi cá. Em sẽ trở thành nàng tiên cá, nhảy xuống nước là sống đủ ba trăm năm cho đến ngày hóa thành bọt biển. Nhưng mau lên em! Chàng hay em, một trong hai người, phải chết lúc mặt trời mọc. Vì em mà Thái Hậu buồn phiền đến nỗi cũng phải để cho mụ phù thủy cắt mất mớ tóc bạc. Giết hoàng tử đi và về với các chị nhanh lên em! Em có trông thấy cái vạch đỏ ở chân trời kia không? Trong mấy phút nữa, mặt trời sẽ mọc và em sẽ chết đấy!

Các chị thở dài não ruột và lặn xuống biển. Nàng tiên cá vén rèm che cửa lên và trông thấy người vợ trẻ ngủ dựa đầu trên ngực hoàng tử. Nàng cúi xuống hôn vào cái trán trơn mịn của chàng, nhìn về phía chân trời, nơi vừng đông mỗi lúc càng đỏ tía. Nàng ngắm nhìn lưỡi dao găm trong tay, rồi đưa mắt nhìn hoàng tử đang nhẩm tên người vợ trong giấc mơ.

Phải, chàng chỉ nghĩ đến vợ chàng thôi. Con dao găm rung lên trong bàn tay nàng tiên cá. Đột nhiên nàng quẳng nó xuống biển. Nước bắn tóe lên nom như những giọt máu đỏ sẫm.
Nàng nhìn hoàng tử một lần cuối cùng rồi gieo mình xuống biển và cảm thấy thân thể tan thành bọt.

Vừa lúc ấy vừng dương nhô lên khỏi mặt biển. Những tia nắng ấm áp, dịu dàng, chiếu trên đám bọt lạnh ngắt và nàng tiên cá cảm thấy mình chưa chết. Nàng trông thấy vừng dương sán lạn.

Trên mặt nước hàng trăm sinh vật đang bay lượn và ca hát. Qua thân hình trong vắt của những sinh vật ấy, nàng nhìn thấy những cánh buồm trắng của con tàu trên nền trời đỏ rực.
Tiếng hát của các sinh vật rất du dương, những kẻ phàm tục không thể nghe thấy, cũng như con mắt người thường không thể trông thấy các sinh vật ấy. Chúng không có cánh, nhưng vẫn bay lượn được, vì thân thể quá nhẹ nhàng. Nàng tiên cá cũng biến hình giống chúng và thoát dần ra khỏi bọt biển.
- Ta đang ở đâu thế nhỉ? Nàng tự hỏi bằng một giọng giống như các sinh vật trên không, nhẹ nhàng đến nỗi không giọng nói trần tục nào sánh kịp.

Có tiếng đáp:
- Hiện nay nàng đang ở với người con gái của không trung. Các tiên cá không có một linh hồn bất diệt, và chỉ có được là nhờ vào tình yêu của một người đàn ông trên mặt đất. Đời họ vĩnh viễn hay không là nhờ vào kẻ khác. Chúng tôi, những người con gái của không trung, không có linh hồn bất diệt. Nhưng, nếu chúng tôi làm được những điều thiện thì chúng tôi có thể có một linh hồn. Chúng tôi bay đến xứ nóng, nơi ôn dịch hành hoành để cứu vớt loài người.

Chúng tôi thả trong không trung hương hoa thơm ngát để chữa bệnh cho họ. Trong ba trăm năm, nếu chúng tôi mang hất tâm lực làm điều thiện, chúng tôi sẽ có một linh hồn bất diệt và chúng tôi sẽ được cùng loài người chia sẽ hạnh phúc vĩnh viễn.
- Thế còn tôi?
- Nàng ư? Nàng tiên cá đáng thương, nàng đã đau khổ quá nhiều, và đã làm được nhiều điều nhân đức, nên nàng cũng được nâng lên làm nàng con gái của không trung, và từ bây giờ, nếu nàng làm được nhiều điều thiện trong ba trăm năm, nàng cũng sẽ có một linh hồn bất diệt.
Nghe vậy nàng tiên cá dang đôi tay trong vắt lên giời và lần đầu tiên đôi mắt nàng đẫm lệ.

Trên tàu, tiếng động và tiếng ồn ào trở lại. Nàng nhìn thấy hoàng tử và công chúa xinh đẹp đang chăm chú tìm nàng. Họ lo lắng nhìn xuống làn nước ngầu bọt, như ngờ rằng nàng đã gieo mình xuống biển.

Nàng tiên cá vô hình hôn lên trán công chúa, mỉm cười với hoàng tử rồi nhập vào đoàn con gái của không trung, cưỡi trên đám mây hồng, bay bỗng trên trời.
- Ba trăm năm nữa chúng ta sẽ được bay như thế này lên thiên đàng, một nàng con gái của không trung nói.
Một nàng khác bảo:
- Có thể sớm hơn.
- Tại sao?
- Chúng ta sẽ len lỏi vào nhà những người trần có con cái, và mỗi lần tìm thấy một đứa bé ngoan ngoãn làm vui lòng cha mẹ, xứng đáng được cha mẹ yêu quý, Thượng đế sẽ rút ngắn thời gian thử thách cho chúng ta. Các cháu bé không biết chúng ta bay lượn trong phòng và mỗi lần chúng ta mỉm cười với một cháu bé ngoan, chúng ta sẽ bớt đi một năm trong số ba trăm năm. Nhưng mỗi lần ta gặp phải một đứa bé gian ác làm cho chúng ta phải rỏ lệ đau buồn, thời gian thử thách của chúng ta sẽ tăng lên một ngày.

Audio book Truyện cổ tích Andersen

Link nghe audio +book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-Truyen-co-tich-Andersen-507.html

Tác giả:  Andersen
Nhà xuất bản: Văn hóa

Giới thiệu cuốn sách:
Ngoài phòng khách, một em bé trai nghèo khó nhìn qua cánh cửa hé mở những vật tuyệt đẹp trong phòng dạ hội. Em chẳng đáng là cái gì trên đời cả nên không được phép vào.
Tại nhà ông lái buôn giàu có nhất trong tỉnh tụ tập một đám rẻ, con cái các gia đình giàu có và quyền quý. Ông lái buôn là người có học, cũng đã thi cử và đỗ đạt. Đó là nguyện vọng của ông cụ thân sinh đáng kính, xuất thân là lái buôn súc vật. Hai bố con đều linh họat, lương thiện, và đã làm ăn phát đạt.
Ông lái buôn là người vừa thông minh, khéo léo và tốt bụng. Nhưng người ta nói nhiều đến của cải của ông hơn là nói đến cái tốt của ông. Lui tới nhà ông có những người sang trọng, những người trí thức. Có người trí thức là con ông cháu cha và cả những người tầm thường không có học thức.
Tối hôm ấy, trẻ con tụ họp tại nhà ông lái buôn. Những đứa nhỏ ấy chuyện trò nhiều, quá nhiều, và nói tuột ra những ý nghĩ của chúng.
Trong số chúng nó, có một đứa con gái cực kỳ xinh đẹp. Nhưng sao mà con bé kiêu ngạo đến thế! Đó là lỗi của những người ở đã phỉnh và chiều nó quá. Trái lại, bố mẹ nó là những người tốt và cũng chỉ tự hào đúng mức với địa vị quý phái của họ. Bố nó là quan nội thần. Hẳn đó là một địa vị cao. Con bé biết thế và bảo các bạn:
- Tao là con cận thần!
Nó cũng có thể là con nhà thường dân, nhưng điều đó đâu phải là tự nó muốn thế nào được vậy?! Nó luôn luôn nhắc cho các bạn biết rằng nó là con ông cháu cha. Nó nói thêm:
- Nếu sinh ra không phải là con ông cháu cha thì thật là vận rủi không thay đổi được. Người ta sẽ không làm nên cái gì cả. Dù cho biết đọc biết viết, học thuộc bài đi nữa, cũng phí công vô ích. Không thể làm nên trò trống gì! Lại còn những đứa mà cuối tên có vần “xen” nữa (1). Ôi thôi! Bọn ấy thì chẳng bao giờ nên người cả. Khi đứng gần chúng nó thì phải chống tay lên cạnh sườn để rẽ chúng nó ra.
Và nó chống hai nắm tay nhỏ xinh lên cạnh sườn, giơ những khuỷu tay rõ nhọn lên để làm điệu bộ ngăn cách bọn thường dân như thế nào. Tay nó nhỏ xíu và trông nó có vẻ xinh xắn tệ! Con gái ông lái buôn nghe câu ấy không khỏi tức giận. Bố nó tên là Potecxen, nó không muốn người ta coi thường những người có vần “xen” ở cuối cùng tên. Nó cố hết sức lấy giọng kiêu kỳ mà bảo rằng:
- Mày có biết là bố tao lại có thể cho bố mày và bố tất cả những đứa khác lên báo của bố tao cơ! Tất cả mọi người đều sợ bố tao và tờ báo của bố tao. Mẹ tao bảo bố tao là một thế lực đấy.
Thế rồi cái đám lau nhau ấy đưa nhau ưỡn ngực, lấy điệu bộ hách dịch, ngắm nghía nhau khinh bỉ và làm dáng điệu như con vua cháu chúa.
Ngoài phòng khách, một em bé trai nghèo khó nhìn qua cánh cửa hé mở những vật tuyệt đẹp trong phòng dạ hội. Em chẳng đáng là cái gì trên đời cả nên không được phép vào. Em đã giúp chị bếp quay tiêm nướng chả và, để thưởng cho em, người ta cho em lên ngó cuộc hội họp gồm toàn những trẻ con xinh đẹp, ăn mặc rất sang trọng ấy. Như thế cũng đã là một diễm phúc cho em rồi. Em nghĩ thầm: “Ước gì mình là một trong chúng nó nhỉ?” Em đã nghe thấy những đứa con gái nói và em thấy buồn trĩu trong lòng. Bố mẹ em nghèo nàn, chẳng có chức vị, chẳng có tiền của, chẳng có báo chí, chẳng có gì cả. Và buồn hơn nữa, tên bố em và em cũng lại có vần “xen”. Như vậy em không còn hy vọng gì và chẳng bao giờ làm gì nên thân trên đời này cả.
Dù sao em cũng thấy rằng cái việc mình không “sinh ra” là một điều phi lý, vì người ta đã nói cho em biết ngày sinh của em.
Nhiều năm trôi qua. Những đứa trẻ ấy đã khôn lớn. Trong thành phố, người ta dựng lên một căn nhà huy hoàng, hay đúng hơn, một cái lâu đài chứa đầy những mỹ nghệ phẩm kỳ diệu và những vật báu thật quý giá. Tất cả mọi người đều muốn vào thăm nơi ấy và cho đấy là một danh dự. Một đám đông các vị tai to mặt lớn thường đến để chiêm ngưỡng những vật phẩm đẹp đẽ ấy. Lâu đài này là chỗ ở của một trong những đứa bé mà ta vừa mới nói đến. Đứa nào nhỉ?
Chính là đứa con trai nghèo khó năm xưa đã đứng nghe sau cánh cửa. Đứa bé ấy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, mặc dầu tên nó có vần “xen”. Đó là Thooc – Van-đơ-xen (2), nhà điêu khắc lừng danh.
Và còn ba đứa kia, những đứa con gái mà là dòng dõi gốc, tiền của, quyền thế của bố mẹ đã cho chúng trở nên kiêu căng, hiện nay thế nào? Tôi không biết gì thêm. Có lẽ chúng ở trong đám đông, những người vô danh. Chắc chúng cũng chẳng đến nỗi hư hỏng vì trời đã phú cho chúng nhiều tư chất tốt. Nhưng chúng cũng có thể thấy rõ ràng câu chuyện chúng nó tối hôm xưa chỉ là “những chuyện con nít”. 

Audio book Cậu bé chăn cừu

Link nghe audio + book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-Cau-be-chan-cuu-505.html

Giới thiệu cuốn sách:
Cậu bé chăn cừu
Một ngày nọ có một cậu bé chăn cừu buồn rầu ngồi trên sườn núi nhìn những con cừu của làng. Để làm vui vẻ cho mình, cậu hít một hơi thật sâu rồi la lên, Sói! Sói! có sói đang đưổi bắt cừu!

Dân làng chạy ngay lên núi để giúp cậu bé đuổi chó sói. Nhưng khi họ đến đỉnh núi thì không thấy con chó sói nào hết. Cậu bé nhìn những khuôn mặt đang giận dữ của dân làng và cười.



Người dân liền bảo với cậu bé "này cậu bé chăn cừu, đừng hô sói khi không có chó sói". Rồi họ tức giận bỏ xuống núi.

Hôm sau cậu bé lại la toáng lên “Sói! Sói! Có sói đang đưổi bắt cừu!” Vì sự vui sướng nghịch ngợm của mình, cậu bé lại thấy người dân chạy lên núi để giúp cậu đánh đuổi sói.

Nhưng khi người dân không thấy chó sói đâu họ liền nghiêm nghị nói với cậu bé "hãy giành bài ca đáng sợ của cậu cho khi nào có việc xấu thực sự! Đừng hô sói khi không có chó sói!”

Nhưng cậu bé chỉ nhe răng cười nhìn họ tức giận xuống núi một lần nữa.

Về sau khi cậu bé nhìn thấy một con sói thực sự đang rình mò đàn cừu của cậu. Rất hoảng sợ, cậu bé vắt chân lên chạy đi dùng hết sức gọi toáng lên “Sói! Sói!”

Nhưng dân làng nghĩ rằng cậu bé lại lừa họ nên không ai chạy lên núi.

Hoàng hôn xuống, mọi người tự hỏi tại sao không thấy cậu bé và đàn cừu trở về. Họ liền leo lên đồi để tìm cậu bé và họ thấy cậu đang vừa khóc vừa nói.

“Thực sự đã có một con sói ở đây! Bầy cừu đã chạy tan tác! Cháu đã hô Có Sói! Tại sao các bác không tới?"

Khi trở về làng, một cụ già đã khoác tay lên cậu bé và an ủi "sáng mai chúng ta sẽ giúp cháu tìm những con cừu bị mất, không ai tin một kẻ nói dối ngay cả khi họ đang nói thật cháu ạ !"

Audio book Mụ phù thủy

Link nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Mu-phu-thuy-503.html

Giới thiệu cuốn sách:
Trời chuyển về đêm. Trong gian nhà nhỏ dùng làm nơi canh giữ nhà thờ, thầy trợ tế Saveli Gykin nằm trên giường đắp một cái chăn to tướng. Thầy chưa ngủ, mặc dù hàng ngày thầy vẫn thường đi ngủ vào lúc gà lên chuồng. Từ một góc chiếc chăn may bằng những mẩu vải phin đủ màu sặc sỡ, thò ra đám tóc hung đỏ cứng nhắc của thầy, còn góc kia thò ra đôi chân đã lâu không rửa. Thầy trợ tế đang nghe ngóng... 

Gian nhà trổ vào tường rào nhà thờ, chiếc cửa sổ duy nhất của nó nhìn ra cánh đồng. Ở đó đang diễn ra trận ác chiến. Khó có thể hiểu nổi kẻ nào tính loại kẻ nào khỏi trần gian và ai muốn muốn giết ai, mà trời đất bị quần đảo tới vậy. Song, căn cứ vào tiếng gầm rít điên cuồng không dứt, rõ là có người đang gặp cơn bĩ cực. Kẻ thắng cuộc đuổi bắt kẻ thù trên cánh đồng. Nó lồng lộn trong rừng và trên nóc nhà thờ, nổi cơn thịnh lộ, giận dữ đấm vào cửa sổ, còn kẻ thua cuộc thì khóc rống lên.... Tiếng khóc lúc thì nghe thấy sau cửa sổ, lúc trên mái nhà, lúc trong lò sưởi. Đó không phải tiếng kêu cứu, mà là nỗi sầu thảm, là cái ý thức hiểu ra rằng tất cả đã quá muộn, đã vô phương cứu vãn. Lớp vỏ mỏng của những đống tuyết sốp khẽ động đậy và từ đó những dòng nước lẫn bụi bẩn sẫm màu chảy tràn trên con đường mòn. Mặt đất tan băng đang ấm dần, nhưng bầu trời bị những đám mây đen che khuất không nhìn thấy điều đó, cứ ra sức vãi lên nó từng nắm bông tuyết mới. Còn gió thì đảo đồng đảo địa, như thể một gã say... Nó không cho những bông tuyết yên thân trên mặt đất, mà cuốn vào bóng đêm theo ý mình.
Gykin cau có lắng nghe thứ âm nhạc đó. Số là thầy trợ tế đã hiểu, hay ít nhất cũng đã đoán ra sự om xòm, lộn sộn sau cửa sổ sẽ dẫn đến đâu và ai là kẻ gây ra điều đó.
- B-i-ế-t mà! - Thầy trợ tế lẩm bẩm, lấy ngón tay dọa ai đó dưới chăn - Ta đã biết tất cả!
Cạnh cửa sổ, vợ thầy, cô Raisa Nilovna đang ngồi trên ghế. Chiếc đèn dầu bằng sắt tây đặt trên chiếc ghế khác hình như đang bối rối, không tin vào sức mình, nên cứ chập chờn chiếu ánh sáng yếu ớt lên đôi vai rộng, lên những đường cong ngon lành của tấm thân và chiếc đuôi sam nặng, dài chấm đất của người đàn bà. Cô đang may bao từ vải gai thô. Đôi tay cô thoăn thoắt, toàn thân cô, cặp mắt, lông mày, đôi môi mọng, cái cổ trắng ngần im lìm, chìm vào công việc đơn điệu, máy móc, như thể đang ngủ. Thỉnh thoảng cô mới ngẩng đầu để cái cổ được nghỉ ngơi, nhìn nhanh lên cửa sổ mà đằng sau nó bão tuyết đang lồng lộn, rồi lại tiếp tục cúi xuống cái bao đang may dở. Không nỗi khát khao, không nỗi buồn, không niềm vui - không có bất cứ biểu hiện gì trên khuôn mặt đẹp có cái mũi hếch và hai lúm đồng tiền trên má, trông cô giống như đài phun nước không làm việc.
May xong cái bao, cô quẳng nó sang bên, khoan khoái vươn vai, dừng cái nhìn đờ đẫn, bất động lên cửa sổ... Trên tấm kính, những giọt nước mắt đang bơi xen lẫn những bông tuyết trắng mỏng manh. Có một bông tuyết nhỏ đậu trên đó liếc nhìn cô, rồi tan ra...
- Đi ngủ đi! - Viên trợ tế lầu bầu.
Cô vợ im lặng. Nhưng bỗng nhiên hàng mi cô động đậy và trong đôi mắt ánh lên sự chú ý. Saveli nãy giờ nằm trong chăn theo rõi nét mặt vợ, thò đầu ra hỏi:
- Gì thế?
- Không có gì... Hình như có ai đó đang đi... - Cô vợ khẽ trả lời.
Thầy trợ tế lấy tay và chân hất tung chiếc chăn khỏi mình, ngồi dậy, quỳ trên giường, thẫn thờ nhìn vợ. Ánh sáng rụt rè của chiếc đèn dầu chiếu lên cái mặt rỗ hoa lông lá và trườn trên cái đầu tóc cứng lởm chởm.
- Nghe thấy không? - Người vợ hỏi.
Trong tiếng gầm rú đơn điệu của cơn bão tuyết, khó khăn lắm thầy trợ tế mới nghe thấy tiếng kêu âm âm, khe khẽ, giống như tiếng muỗi đậu trên má và bực bội vì bị quấy nhiễu.
- Đó là xe bưu điện... - Saveli lẩm bẩm, đặt mông lên hai gót chân.
Cách nhà thờ ba vesta chiếc xe thư đang nằm đó. Khi gió thổi từ đường cái về phía nhà thờ thì những người trong gian nhà canh nghe rõ tiếng chuông xe.
- Lạy Chúa, trời đất thế này mà họ vẫn phải đi! - Cô trợ tế thở dài.
- Việc công. Muốn hay không vẫn cứ phải đi...
Tiếng chuông ngưng lại trong không trung rồi tắt lặng.
- Đi qua rồi! - Saveli nói và nằm xuống.
Nhưng thầy trợ tế chưa kịp đắp chăn thì lại nghe thấy tiếng chuông vọng tới rõ mồn một. Anh ta lo lắng liếc nhìn vợ, nhẩy từ trên giường xuống đất và xiêu vẹo đi đi lại lại bên bếp lò. Chuông kêu được một lúc, lại tắt lặng, như thể bị giật đứt.
- Không nghe thấy gì... - Thầy trợ tế lẩm bẩm, dừng lại, nheo mắt nhìn vợ.
Đúng lúc ấy gió đập vào cửa sổ mang theo tiếng rên khe khẽ, âm âm... Saveli tái mặt, dặng hắng và lại nện chân trần trên sàn nhà.
- Xe bưu điện bị lạc! - Trợ tế nói giọng khàn khàn, giận giữ liếc vợ - Cô cũng nghe thấy chứ? Xe bưu điện bị lạc! Tôi... tôi đã biết mà! Sao tôi lại không hiểu cơ chứ? - Anh ta lẩm bẩm. - Tôi biết tỏng cô là con đàn bà hư hỏng!
- Anh biết cái gì? - Cô trợ tế khẽ hỏi, mắt không rời cửa sổ.
- Tôi biết tất cả những chuyện này là do một tay cô làm, đồ quỷ cái! Cô gây ra để có cớ mà sa ngã! Cả bão tuyết, cả cái xe bị lạc... Tất cả đều do cô gây ra! Chính cô!
- Điên! đồ ngu... - Cô trợ tế bình thản nhận xét.
- Tôi theo rõi cô từ lâu rồi! từ lúc mới cưới, ngay hôm đầu tiên tôi đã thấy cô có máu chó cái!
- Phù! - Raisa ngạc nhiên, nhún vai và làm dấu thánh - Làm dấu đi, đồ ngốc!
- Phù thủy vẫn là phù thủy. - Saveli tiếp tục, giọng khò khè, như khóc, vội vã xỉ mũi vào ống tay áo - Dù cô có là vợ tôi, dù cô có thuộc dòng dõi chức sắc nhà thờ, nhưng tôi thì tôi cứ nói thẳng toẹt ra cô là cái hạng người nào... Còn gì nữa? Xin Chúa che chở, rủ lòng thương! năm ngoái, vào ngày lễ tiên tri Danhil và ba vị tông đồ [1] chả có bão tuyết là gì - Và cái gì đã xảy ra? Một gã thợ rẽ vào sưởi ấm. Sau đấy, tới ngày lễ Aleksi-người nhà trời, sông chả nổi sóng cuồn cuộn là gì, rồi thầy cẩm huyện cũng lại được đưa tới... Cả đêm hắn ngồi với cô, tên khốn, đấu hót, thế rồi đến sáng, lúc hắn bước ra, tôi nhìn thấy cái mặt hắn, mắt thì có quầng, má thì chảy xệ! Sao hả? Còn vào ngày lễ Cứu Thế dông nổi hai lần, cả hai lần thằng thợ săn đều tới ngủ đêm ở đây. Tôi nhìn thấy cô cho cái thằng khốn nạn ấy vào tròng như thế nào, nhìn thấy hết! Ô, trông cái mặt kìa, đỏ như tôm luộc! A hả!
- Anh chẳng nhìn thấy cái quái gì cả...
- Lại còn không thấy! Còn mùa đông năm nay thì sao, trước Phục sinh, vào ngày Lễ mười Thánh tử vì đạo ở Krita, hôm ấy bão tuyết cả ngày lẫn đêm... cô nhớ chứ? - Gã thư ký Hội đồng huyện, đồ chó, bị lạc đường, chả dẫn xác tới là gì... Mà cô chài ai cơ chứ, phù, chài một thằng thư lại! Vì cái thằng khốn đó đến đất trời của Chúa cô cũng không tha, làm tình làm tội! mà cái thằng khốn nạn ấy nào có ra hồn người, hệt quỷ sứ, chả giống ai, mặt thì nhăn nhúm, cổ thì vẹo... Giá nó đẹp trai cơ, đằng này, phù, quỷ sa tăng!
Thầy trợ tế lấy lại hơi, chùi bọt mép và lắng tai nghe. Tiếng chuông không còn nghe thấy, nhưng khi gió tốc vào mái nhà, trong bóng đêm sau cửa sổ nó lại nổi lên.
- Bây giờ cũng thế! - Saveli tiếp tục - Không dưng cái xe thư bị lạc! Cứ nhổ vào mắt tôi, nếu cái xe ấy không đến tìm cô! Ô, yêu tinh quỷ cái, biết cách lắm, tìm được trợ thủ đắc lực lắm! nó phù phép vây lấy cái xe, rồi nhoàng một cái đưa tới cái nhà này. Đây b-i-ế-t h-ế-t, n-h-ì-n t-h-ấ-y h-ế-t, không giấu được đây đâu, đồ quỷ cái, con dâm tặc! Bão nổi lên một cái là đây đã biết tỏng mọi ý nghĩ của nhà cô rồi.
- Ngu thế chứ! - Cô trợ tế cười khẩy - Sao, cái đầu ngốc nghếch của anh nghĩ tôi gây ra bất hạnh chắc?
- Hừm... cứ việc cười! Phải cô hay không, không cần biết, đây chỉ thấy: cô mà lên cơn động cỡn là y rằng tiết trời xấu, mà tiết trời xấu y rằng nó mang tới đây một thằng cha điên rồ nào đó. Lần nào cũng vậy! Thế không cô, còn ai vào đây? Chính là cô!
Thầy trợ tế, để cái lí của mình thuyết phục hơn, đặt một ngón tay lên trán, nhắm mắt phải và nói bằng giọng du dương:
- Ôi, điên rồ! Ôi, xin hãy trừng phạt nó như Chúa đã trừng phạt dân Do Thái! Giá cô là người, chứ không phải phù thủy, thì cái đầu cô đã nghĩ ra được, đâu có phải gã thợ, thằng đi săn, tên thư lại, thằng cò, thằng cẩm, mà là quỷ đội lốt đấy! Nghe ra chưa, hả? Giá là người, thì cô đã nghĩ ra được!
- Sao anh ngốc thế hở Saveli! - Cô trợ lý thở dài, thương hại nhìn chồng - Hồi cha tôi còn sống, ở ngay đây, biết bao nhiêu người khác nhau đến để chữa bệnh: cả người trong làng, cả người ở vùng lân cận, người Acmêni từ thôn của của họ. Nghĩ xem, hàng ngày có biết bao nhiêu người tới, nhưng chẳng có ai là quỷ đội lốt cả. Thế mà bây giờ, cả năm mới có một, hai người vì thời tiết rẽ vào nhà chúng ta sưởi nhờ, vậy mà anh, đồ ngốc ạ, độc nghĩ lung tung.
Logíc của cô vợ tác động tới Saveli. Anh ta dạng hai chân để trần, cúi đầu nghĩ ngợi. Thầy trợ tế chưa tin lắm vào những phỏng đoán của mình, nên bị giọng nói bình thản, chân thành của cô vợ phần nào làm nguôi nguôi. Tuy nhiên, nghĩ một chặp, thầy lại lắc đầu:
- Thế tại sao lại chẳng có ông già, hay đứa trẻ nào đến xin ngủ nhờ, mà toàn những gã trai trẻ... tại sao nào? Với lại, sưởi không thôi thì nói làm gì, đằng này lại gãi ngứa cho quỷ. Không, bà xã, cái giống đàn bà là vậy, láu cá chả có gì trên đời này sánh được! óc đàn bà, lậy Chúa, còn bé hơn óc chim sẻ, nhưng ranh thì như quỷ - u-u-u! Xin hãy cứu vớt, lạy Đức Mẹ trên trời! Bão tuyết vừa nổi lên, y rằng mọi ý nghĩ của cô tôi đã biết hết! Cô có phép phù thủy, đồ nhện cái!
- Sao anh cứ nhằng nhẵng mãi thế hở? - Cô trợ tế hết kiên nhẫn - Sao anh cứ bám lấy tôi như đỉa đói [2] vậy?
- Bám lấy cô, à là vì đêm nay, lạy Chúa, xin đừng để chuyện gì xẩy ra... Cô nghe đây! nếu có chuyện gì, ngay sáng sớm mai tôi sẽ tới cha Nikodim, kể cho cha hết tất cả. Thế, thế, tôi nói, Đức cha Nikodim, xin rất thứ lỗi, nhưng cô ta là phù thủy. Tại sao ư? Hừm... cha muốn biết tại sao ư? Xin được phép... thế, thế. Rồi cô khốn nạn cho xem! Không chỉ ở ngày phán xử, mà cô sẽ bị trừng phạt ngay bây giờ, ở trần gian này! không dưng em trai cô có tên trong sổ ghi lễ của nhà thờ.
Bỗng có tiếng gõ cửa sổ, tiếng gõ to và bất bình thường tới nỗi Saveli tái mặt, sợ hãi ngồi thụp xuống. Cô trợ tế đứng bật dậy, mặt cũng tái lại.
- Vì Chúa, cho chúng tôi sưởi nhờ với! - Vọng vào một giọng nam trầm run run - Có ai không? Làm ơn làm phúc! Chúng tôi bị lạc đường!
- Ai ở ngoài đấy? - Cô trợ tế hỏi, không dám nhìn lên cửa sổ.
- Xe bưu điện! - Một giọng khác trả lời.
- Đấy, biết ngay mà, phép quỷ đã ứng nghiệm! - Saveli phẩy tay - Nói có sai đâu... Thế nào, nhìn tôi đây này!
Thầy trợ tế nhảy hai lần trước giường rồi nằm vật lên tấm đệm lông chim, tức giận thở phì phì và nằm quay mặt vào tường. Chẳng bao lâu một làn hơi lạnh đập vào lưng thầy. Cửa kẹt mở và trên ngưỡng cửa là một hình người cao lớn, tuyết bám kín từ đầu tới chân. Đằng sau thấp thoáng một bóng người khác, cũng trắng như thế...
- Mang những cái bao vào chứ? - Hình người thứ hai hỏi bằng giọng khàn khàn.
- Để lại đó sao được!
Vừa nói, người đầu tiên vừa cởi áo khoác ngoài và không đợi được, lột phăng nó qua đầu, cùng với chiếc khăn, giận dữ quẳng xuống cạnh lò sưởi. Sau đó anh ta khi cởi nốt chiếc măng tô, rồi ném luôn vào đống khăn áo. Không chào hỏi ai, anh ta đi đi lại lại trong nhà.
Đó là một người đưa thư còn trẻ, tóc sáng màu, mặc quần áo nhân viên bưu điện nhàu nát, đi đôi ủng màu nâu bẩn thỉu. Sau khi sưởi ấm bằng cách đi lại, anh ta ngồi xuống sau bàn, duỗi đôi chân đi ủng bẩn thỉu lên đống bao và lấy tay đỡ đầu. Cái mặt trắng có những vệt đỏ còn hằn rõ dấu vết của sự đau đớn và nỗi sợ hãi vừa trải qua. Một khuôn mặt méo mó vì giận dữ, với những nỗi đau về thể xác và tinh thần đang còn mới, với những bông tuyết đang tan chảy trên lông mày, trên bộ ria và đám râu quanh cằm, vẫn là một khuôn mặt đẹp.
- Đời chó má thật! - Người đưa thư lẩm bẩm, đưa mắt nhìn những bức tường, dường như không tin rằng mình đã ở nơi ấm áp - Tý nữa thì chết! Không có lò sưởi nhà chị, tôi cũng chẳng còn biết làm thế nào... Có quỷ biết được lúc nào mọi chuyện kết thúc! Cuộc đời chó mà này không biết đâu là cùng! Đây là đâu vậy? - Anh ta hỏi và hạ giọng, ném cái nhìn về phía cô trợ tế.
- Gò Gulaevski thuộc trang ấp của tướng Kalinovski - Cô trợ tế trả lời, đỏ mặt lúng túng.
- Nghe thấy chưa Stepan? - Tay nhân viên đưa thư quay lại nói với gã đánh xe đang mắc kẹt ở cửa với những gói lớn bằng da sau lưng - Chúng mình lạc tới tận gò Gulaevski!
- Vâng... khí xa thật!
Nói xong những lời đó bằng một giọng khào khào, thở rít lên, gã đánh xe bước ra, dừng một chút, rồi vác vào trong nhà một bọc nhỏ hơn, sau đó lại đi ra và lần này mang vào thanh gươm của xe bưu có giây đeo rộng bản, giống như thanh kiếm dài vẽ trong những bức tranh chợ Iudif trên giường của Olofern. Đặt những bọc da cạnh tường, anh ta bước ra phòng ngoài và ngồi đó hút thuốc.
- Các vị dùng trà rồi mới đi chứ ạ? - Cô trợ tế hỏi.
- Còn lúc nào mà trà với trọt! - Người đưa thư càu nhàu. Sưởi cho mau rồi còn phải đi, không thì không kịp chuyến tầu thư. Chúng tôi chỉ ngồi đây độ mươi phút rồi đi ngay. Có điều, làm ơn chỉ đường giúp chúng tôi với...
- Bão tuyết thế này, Chúa trừng phạt đây! - Cô trợ tế thở dài.
- Vâng... xin được hỏi cô làm gì ở đây vậy?
- Chúng tôi ư? Chúng tôi người ở đây, thuộc nhà thờ... Kia là chồng tôi, anh ấy đang ngủ. Saveli, dậy đi mình, dậy chào hỏi khách! Ngày trước, đây là giáo xứ, cách đây năm rưỡi đã bị bãi bỏ. Tất nhiên khi các cha sống ở đây thì giáo dân đông đúc, xứ đạo còn giữ được, bây giờ không có các cha nữa, các bác thử nghĩ coi, nhà thờ sống bằng gì, vì là thôn gần nhất, thôn Markovka ấy, cũng phải cách đây tới năm vesta! Bây giờ Saveli chúng tôi đứng ngoài biên chế và... thay chân người gác. Nhà tôi được giao nhiệm vụ coi giữ nhà thờ...
Người đưa thư còn biết thêm rằng giá như Saveli tới gặp vợ ông tướng, xin bà mấy chữ đưa cho cha bề trên, thì thể nào cũng được bổ vào chỗ tốt; song anh ta không tới gặp bà tướng, phần vì lười, phần sợ mọi người.
- Nhưng dù sao chúng tôi cũng thuộc hạng chức sắc... - Cô trợ tế nói thêm.
- Thế các vị sống bằng gì? - Người đưa thư hỏi.
- Nhà thờ có ít ruộng và đất vườn. Nhưng mà chúng tôi cũng chả kiếm được mấy... - Cô trợ tế thở dài. Cha Nhikodim, tổng quản trợ tế, là người hay ganh ghét, ở đây cả thời gian lễ thánh Nhikola mùa hạ, lẫn mùa đông, vơ cho mình gần hết mọi thứ. Chả có ai bênh vực chúng tôi cả.
- Điêu! - Saveli rít lên - Cha Nhikidim là bậc chí thánh, là ngọn nến của nhà thờ, nếu có lấy các thứ, thì cũng là theo luật định!
- Cô có anh chồng gắt gỏng gớm! - Người đưa thư cười cười khẩy - Thế cô lấy chồng lâu chưa?
- Tính đến chủ nhật vừa rồi là bốn năm. Trước đây cha tôi làm trợ tế ở đây. Khi ông cụ thấy mình chẳng sống được bao lâu, sợ tôi bị mất lộc, đã tới hội đồng nhà xứ, xin họ cử tới đây một thầy trợ tế chưa vợ để làm chú rể. Thế là tôi lấy chồng.
- A hả, anh cu chàng đập một nhát chết hai con ruồi! - Người đưa thư nói, đưa mắt nhìn lưng Saveli - Vừa kiếm được chỗ làm, lại vừa lấy được vợ.
Saveli khó chịu cựa quậy đôi chân và nằm sát vào tường. Người đưa thư đứng dậy, ra khỏi bàn, vươn vai, rồi ngồi lên trên những bọc da. Nghĩ một lát, anh ta nắn nắn mấy chiếc bọc, đặt bao kiếm sang chỗ khác, rồi nằm lên đó, duỗi một chân xuống đất.
- Cuộc đời chó má... - Anh ta lẩm bẩm, lấy tay gối đầu và nhắm mắt lại - sống như thế này thì đến hạng Tác Ta quèn cũng chả buồn sống.
Chẳng bao lâu im lặng trùm lên. Chỉ còn nghe thấy tiếng Saveli thở phì phì, tiếng thở đều đều, chậm chạp của người đưa thư đã ngủ. Cứ mỗi lần thở lại bật ra tiếng khờ-khờ-khờ đậm đặc, kéo dài. Thỉnh thoảng cổ họng anh ta lại rít lên, hệt tiếng rít của bánh xe nhỏ, tiếng chân đập vào những bọc da.
Saveli trở mình dưới tấm chăn, hé mắt nhìn ra. Cô trợ tế vẫn ngồi trên ghế, hai tay chống cằm và nhìn vào mặt người đưa thư. Cái nhìn bất động của một người vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi.
- Này, nhìn cái gì thế? - Saveli giận dữ thì thầm.
- Việc gì đến mình? Nằm xuống! - Cô trợ tế đáp, mắt vẫn không rời mái đầu tóc sáng. Saveli tức giận thở bằng hết không khí trong phổi, rồi quay ngoắt mặt vào tường. Ba phút sau anh ta lại lo lắng trở mình, ngồi dậy, quỳ trên giường, chống tay xuống chiếc gối và liếc xéo vợ. Cô vợ vẫn không nhúc nhích, mắt vẫn nhìn người khách đang ngủ. Má cô trắng nhợt, đôi mắt ánh lên ngọn lửa lạ lùng. Thầy trợ tế ì ạch bò ra khỏi giường, đi tới bên người đưa thư, lấy khăn phủ lên mặt anh ta.
- Mình làm gì thế? - Cô trợ tế hỏi.
- Để anh ta khỏi chói mắt.
- Thì mình cứ tắt hết đèn đi!
Saveli nghi ngờ nhìn vợ, ghé môi gần ngọn đèn dầu, nhưng lập tức dừng lại, phẩy tay.
- Cô lại giở trò quỷ chứ gì. - Thầy trợ tế kêu lên. - Hả? Còn có giống vật nào tinh ranh hơn cái giống đàn bà không đây?
- Có quỷ sa tăng mặc áo vạt dài! - Cô trợ tế rít lên, mặt cau lại giận dữ - Liệu cái thần hồn!
Đổi tư thế ngồi cho dễ chịu, cô lại chăm chú nhìn người đưa thư. Khuôn mặt có bị đóng kín trong lúc ngủ cũng chẳng sao, cái hấp dẫn cô không hẳn là khuôn mặt, mà là toàn thân, là cái mới mà cô phát hiện ở con người này. Anh ta có khuôn ngực rộng, đôi tay đẹp với những ngón dài thuôn thuôn, đôi chân săn chắc, đẹp và khoẻ, hơn đứt “hai chiếc cẳng gà” của Saveli. Thậm chí không thể so được.
- Thì tôi là quỷ sa tăng mặc áo vạt dài đấy. - Saveli nói, dừng lại một lúc, - Nhưng nó cũng không có quyền lăn ra đấy mà ngủ... Việc là việc công, khéo mà mình bị vạ lây, ai bảo giữ nó lại. Công việc chuyển thư, thì phải đi mà chuyển thư, ai lại ngủ thế bao giờ... Ê, anh kia! - Saveli gọi với ra nhà ngoài. - Anh đánh xe... tên gì? Chắc là đến lúc phải dẫn đường cho các vị rồi? Dậy! dậy! làm bưu điện chớ có ngủ cùng thư tín!
Saveli hùng hổ nhảy tới bên người đưa thư, giật giật tay áo anh ta.
- Ê, quý ngài! Nếu phải đi, thì đi đi thôi, còn không đi, thì cũng không được như thế... Không được ngủ.
Người đưa thư ngồi bật dậy, đưa cặp mắt ngái ngủ nhìn xung quanh gian nhà, rồi lại nằm xuống.
- Thế bao giờ thì đi được đây? - Saveli nói như gõ trống, giật tay áo anh ta. - Xe bưu điện thì cần phải tới cho đúng giờ, rõ chửa? Tôi sẽ chỉ đường cho các vị.
Người đưa thư mở mắt. Được sưởi ấm, lử lả vì vừa ngủ ngon đã bị đánh thức và vẫn đang còn ngái ngủ, anh nhìn thấy, như trong màn sương, cái cổ trắng ngần và cái nhìn đăm đăm, ướt át của cô trợ tế. Nhắm mắt lại, anh mỉm cười, nghĩ mình đang mơ thấy tất cả những thứ đó.
- Trời đất như thế này đi đâu! - Anh nghe thấy một giọng phụ nữ êm ái cất lên - Cứ để họ ngủ cho thoải mái!
- Thế còn thư ? - Saveli lo lắng - Ai là người sẽ chuyển thư đây? Cô hẳn? Cô?
Người đưa thư lại mở mắt, nhìn đôi lúm đồng tiền đang động đậy trên khuôn mặt cô trợ tế, nhớ ra mình đang ở đâu và nhận ra Saveli. Chỉ nghĩ tới việc phải ra đi trong đêm hôm giá rét, toàn thân đã nổi cả da gà, anh ngần ngại nói:
- Giá được ngủ thêm năm phút nữa... - Anh ngáp - Đằng nào thì cũng muộn rội...
- Có thể mình tới đúng lúc đấy! - giọng người đánh xe cất lên ở nhà ngoài.- Nhìn xem, chưa tới một giờ và nếu chuyến tàu bị chậm thì mình gặp may.
Người đưa thư ngồi dậy, khoan khoái vươn vai và mặc bành tô.
Saveli nhìn thấy khách chuẩn bị lên đường mừng húm.
- Giúp chúng tôi một tay nào! - Người đánh xe gọi anh ta, tay nâng một bọc thư lên.
Thầy trợ tế chạy tới và cùng anh ta khuân đống bưu phẩm ra xe. Người đưa thư cởi những nút thắt của chiếc áo choàng ngoài. Cô trợ tế nhìn vào mắt anh, vẻ như muốn bắt thân.
- Anh làm cốc trà... - Cô mời.
- Tôi uống cũng được thôi, nhưng mọi người đang chuẩn bị đi rồi! - Anh nói, vẻ đồng tình - Tôi đã bảo đằng nào cũng đã muộn!
- Thì anh cứ ở lại! - Cô thầm thì, mắt nhìn xuống, khẽ chạm vào tay áo anh.
Người đưa thư cuối cùng cũng đã cởi hết các nút của chiếc áo khoác, vắt nó lên tay với vẻ thiếu cương quyết. Anh cảm thấy ấm áp đứng cạnh cô trợ tế.
- Cô có cái... cổ...
Anh lấy hai ngón tay chạm vào cổ cô. Không thấy cô phản ứng, anh vuốt cổ cô, rồi vuốt xuống vai...
- Phù, cô...
- Kệ, cứ ở lại... ở lại uống trà.
- Sao lại đặt như thế? Người đâu mà ẽo ợt [3]! - Tiếng người đánh xe vọng lại từ ngoài sân - Đặt theo chiều ngang ấy.
- Ở lại đi... anh nhìn xem, trời đất vẫn còn quay cuồng thế kia!
Chưa hoàn toàn tỉnh ngủ, chưa rũ khỏi cơn thèm một giấc ngủ sâu của tuổi trẻ, trong lòng người đưa thư bỗng trào lên nỗi khát khao mà vì nó có thể quên đi những bọc thư, quên những đoàn tầu bưu điện... quên tất cả mọi thứ trên đời. Hốt hoảng như thể muốn chạy trốn hay tìm chỗ ẩn nấp, anh nhìn ra cửa, tay ôm ngang lưng cô trợ tế, đầu cúi xuống định thổi tắt đèn. Nhưng vừa lúc tiếng những bước chân vang lên ở nhà ngoài, và người đánh xe hiện trước cửa... Saveli nhìn qua vai anh ta. Người đưa thư buông vội tay và đứng yên, như thể đang nghĩ ngợi.
- Tất cả đã chuẩn bị xong! - Người đánh xe nói.
Người đưa thư đứng một lúc, lắc đầu dứt khoát, như thể tỉnh ngủ hẳn, rồi bước theo gã đánh xe. Còn lại một mình cô trợ tế.
- Được rồi, ngồi xuống đấy, chỉ đường cho bọn tôi! - Cô nghe thấy giọng nói vọng lại.
Tiếng một chiếc chuông lười biếng cất lên, sau đó là chiếc khác, rồi những tiếng chuông làm thành một chuỗi ngân dài, mảnh, vọng lại từ phía ngoài nhà canh.
Khi những tiếng chuông tắt dần, cô trợ tế đứng bật dậy, bồn chồn đi lại từ góc nhà này sang góc nhà kia. Lúc đầu mặt cô tái nhợt, sau đỏ bừng lên. Mặt cô biến dạng bởi nỗi căm thù, hơi thở run rẩy, đôi mắt ánh lên nỗi tức giận điên cuồng, man rợ. Cô lồng lộn đi lại, giống như con hổ bị nhốt trong cũi bị người ta lấy thanh sắt nung đỏ ra dọa. Cô dừng lại một phút nhìn toàn bộ gian nhà. Riêng cái giường đã chiếm gần nửa nhà, chạy dài theo bức tường, trên đó là tấm đệm lông chim bẩn thỉu, những chiếc gối cứng bọc vải xám, cái chăn và những thứ giẻ rách không tên khác. Cái giường trông không còn ra hình thù gì, đó là một đống xấu xí, giống như đám tóc vón lại trên đầu Saveli mỗi khi anh ta nổi hứng chải bi dăng tin.Từ chiếc giường ra tới chỗ cửa mở ra phòng ngoài lạnh lẽo là cái bếp lò đen xì với cả đống nồi niêu, bô, chậu và những mớ giẻ rách. Tất cả mọi thứ, không ngoại trừ cả anh chàng Saveli vừa ra khỏi nhà, đều bẩn hết chỗ nói, bị ám khói và chạt mỡ, thế cho nên, thật lạ lùng giữa khung cảnh ấy nhìn thấy cái cổ trắng ngần, làn da mỏng, mịn màng của người đàn bà. Cô trợ tế chạy tới chiếc giường, giang hai tay như muốn tung hê, giẫm đạp, xé vụn tất cả. Nhưng sau đó, dường như sợ bị dây bẩn, cô lùi lại và lại tiếp tục đi đi lại lại...
Hai giờ sau, khi Saveli trở về mệt nhoài, người bám đầy tuyết, thì cô đã thay quần áo, lên giường ngủ. Cô nhắm mắt, nhưng qua nhưng rung động khe khẽ trên khuôn mặt, thầy trợ tế biết cô chưa ngủ. Trên đường về nhà anh ta đã tự hứa cho tới sáng sẽ im lặng, không thèm rờ đến cô ả. Nhưng không móc máy, chì chiết, anh ta không chịu được.
- Phí công chửa, vừa mới phù phép nó đã đi mất! - Thầy trợ tế nói, cười gằn độc địa.
Cô trợ tế im lặng, chỉ có cằm cô run run. Saveli chậm rãi cởi quần áo, trèo qua người vợ, nằm sát vào tường.
- Mai tôi sẽ tới cha Nhikodim giải thích cho cha biết cô là người vợ như thế nào! - Anh ta lẩm bẩm, cuộn người nằm co quắp.
Cô trợ tế quay phắt lại phía anh ta, quắc mắt.
- Càng rảnh nợ, - Cô nói, - vào rừng mà tìm lấy vợ! Tôi làm vợ anh như thế nào à? Sao anh không nứt trương ra! đồ chẩy thây! Chỉ được cái bám váy vợ! xin Chúa tha tội!
- Thôi, thôi... ngủ đi!
- Sao cái thân tôi nó khổ thế này! - Cô trợ tế nức lên - Giá không có anh có phải tôi đã lấy được lái buôn hay một người tử tế nào đó không! Giá không lấy anh, có phải bây giờ tôi đã yêu chồng rồi không! sao tuyết không vùi anh, sao anh không chết cóng ở ngoài đường cái cho rồi, đồ ngợm!
Cô trợ tế khóc rất lâu. Cuối cùng cô thở dài và im lặng. Sau cửa sổ bão tuyết vẫn hoành hành. Trong bếp lò, trong ống khói, đằng sau tất cả những bức tường, có cái gì đó đang khóc, và Saveli cảm thấy trong người mình, trong tai mình, cái ấy đang khóc. Tối nay anh ta đã hoàn toàn tin vào những phỏng đoán của mình về vợ. Chẳng còn mảy may nghi ngờ, cô vợ nhờ những thế lực ma quái đã điều khiển gió bão và cỗ xe tam mã của bưu điện. Thế nhưng cái điều bí ẩn, cái sức mạnh siêu nhiên và man rợ khiến thầy trợ tế đau khổ nhường ấy, lại làm người đàn bà nằm bên cạnh có một sức quyến rũ đặc biệt, không thể hiểu nổi, điều anh ta chưa từng gặp trước đây. Cái mà vì ngu ngốc anh ta không nhận ra được ở cô, đã thi vị hóa cô, khiến cô càng trở nên trắng trẻo, mịn màng, không sao với tới được...
- Phù thủy! - Thầy trợ tế phẫn uất - Phù, đáng ghét!
Mặc dù vậy, khi cô vợ nằm yên và bắt đầu thở đều, anh chồng đoán cô đã ngủ, lấy tay khẽ chạm vào gáy cô... nắm lấy cái đuôi sam nặng trĩu của cô. Cô không nghe thấy... anh ta bạo dạn hơn, lấy tay vuốt cổ cô.
- Bỏ ra! - Cô vợ gắt lên, lấy khuỷu tay húych mạnh vào hốc mũi anh ta, khiến anh ta nổ cả đom đóm mắt.
Cái đau trong hốc mũi qua nhanh, nhưng nỗi dầy vò thì vẫn còn tiếp tục.
Chú thích:
[1] Danhil - người mộ đạo thông thái, nhà tiên tri, cùng học với ba vị thánh (Anania, Azari và Misail) ở cung điện vua Navokhudonosor (ND)
[2] Nguyên văn: nhựa cây
[3] Nguyên văn: cháo trộn mật - thứ cháo gạo nấu với mật, thường nấu vào các bữa cúng giỗ.
HẾT

Audio book Nhà rồng

Link nghe audio +book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-Nha-rong-Truyen-co-tich-501.html

Audio book Sâu đo và bọ ngựa đi học nghề

Link nghe audio + book miễn phí : http://vnaudiobook.com/audio-books-Sau-do-va-bo-ngua-di-hoc-nghe-Truyen-Co-Viet-Nam--499.html




Audio book Sự tích chú Cuội cung trăng

Link nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Su-tich-chu-Cuoi-cung-trang-496.html

Giới thiệu cuốn sách  :
Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao.
Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.

Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:

- Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!

Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.

Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.

Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.

Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.

Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.

Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.

Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.

Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.

Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.

Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.